Phân tích Vẻ đẹp của Thúy Kiều qua đoạn trích “Trao duyên”>
I. Mở bài - Giới thiệu những nét cơ bản về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều. - Giới thiệu những nét cơ bản về đoạn trích "Trao duyên"
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu những nét cơ bản về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
- Giới thiệu những nét cơ bản về đoạn trích "Trao duyên"
- Giới thiệu vấn đề cần phân tích: Vẻ đẹp nhân cách của Thúy Kiều qua đoạn trích "Trao duyên".
II. Thân bài
a. Thúy Kiều là một người không khéo, thông minh, sắc sảo.
- Lời nhờ vả em của Thúy Kiều:
+ Cậy" chính là sự nhờ vả, trông chờ, dựa dẫm tất cả vào người đối diện.
+ "Lạy" và "thưa" là những từ dùng để diễn tả thái độ, hành động của người bề dưới đối với người bề trên.
→ Trong hoàn cảnh của Thúy Kiều lúc này ta thấy đó là một điều hết sức phù hợp, bởi Thúy Kiều đang muốn nhờ em mình nối duyên thay mình và Kiều chính là người mang ơn Thúy Vân, với hành động đó của Kiều Thúy Vân sẽ khó lòng có thể từ chối.
- Những lí lẽ Thúy Kiều đưa ra để thuyết phục em:
+ Thúy Kiều nói về mối tình của mình với Kim Trọng: Mối tình đẹp như mơ ấy đang độ mặn nồng ấy vậy mà "giữa đường đứt gánh tương tư"
+ Thúy Kiều còn nói với em về hoàn cảnh hiện tại của bản thân, khi phải đứng giữa sự lựa chọn đầy khó khăn giữa hiếu và tình.
+ Thúy Kiều thuyết phục em bằng tình cảm chị em ruột thịt máu mủ và những dự cảm về cái chết, về tương lai của mình.
b. Thúy Kiều là một người con hiếu thảo với cha mẹ và chung thủy, giàu ân tình với người yêu.
- Thúy Kiều là người con hiếu thảo với cha mẹ: Trước tai họa của gia đình, Kiều đứng trước sự lựa chọn giữa hiếu và tình, Kiều hi sinh tình yêu của mình những mong gia đình được êm ấm, chọn chữ hiếu, chọn bán mình để chuộc cha và em.
- Thúy Kiều là một người thủy chung, giàu ân tình với người yêu:
+ Kiều luôn nhớ đến những "quạt ước, chén thờ" - những lời hò hẹn, thề nguyền của cả hai.
+ Khi gia đình gặp tai biến, nàng không có sự lựa chọn nào khác thì vẫn nhờ em thay mình nối duyên với Kim Trọng.
+ Trao kỉ vật cho em, nhưng "duyên này" - tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng thì nàng vẫn luôn giữ trong tim mình.
c. Thúy Kiều là một con người giàu lòng vị tha và đức hi sinh cao cả.
+ Thúy Kiều đã nhận hết lỗi về mình, tự nhận mình là người phụ bạc khiến cho tình yêu của nàng và Kim Trọng tan vỡ - "Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây".
+ Hành động "gửi lạy tình quân" của Thúy Kiều chính là cái "gửi lạy" với mong muốn được tạ lỗi với Kim Trọng.
III. Kết bài
-Khái quát những vẻ đẹp của Thúy Kiều được thể hiện qua đoạn trích "Trao duyên" và nêu cảm nghĩ của bản thân.
Bài tham khảo Mẫu 1
Đoạn trích Trao duyên có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tác phẩm Truyện Kiều, nó là bản lề khép mở giữa hai trang cuộc đời Thúy Kiều: phía trước là cuộc sống yên ấm, hạnh phúc và phía sau là mười lăm năm lưu lạc, đày ải. Qua đoạn trích ta không chỉ thấy được số phận bất hạnh của nàng mà còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Thúy Kiều.
Trước hết nàng là người con rất mực có hiếu với cha mẹ. Trước gia biến của gia đình, đó cũng là lúc tình cảm của nàng và Kim Trọng ở giai đoạn ngọt ngào đẹp đẽ nhất nhưng nàng đã dứt áo, quyết tâm bỏ lại chữ tình để đền ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ:
“Làm con trước phải đền ơn sinh thành.”
Trước mâu thuẫn giữa tình và hiếu, dù đau đớn, nhưng Kiều đã giải quyết mâu thuẫn này hết sức dứt khoát và có phần thanh thản. Nàng đã bán mình chuộc cha và em, để đảm bảo gia đình có cuộc sống bình yên, còn bản thân sẵn sàng hy sinh hạnh phúc, sống cuộc đời lưu lạc suốt mười lăm năm. Qua những hành động đó cho thấy tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều với cha mẹ, nàng là người sống có trách nhiệm với gia đình.
Không chỉ vậy, đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp khác của Thúy Kiều đó là con người trọng tình nghĩa, hết mực thủy chung và sâu sắc trọng tình. Bởi là người trọng tình nghĩa nên khi phải bỏ lại chàng Kim đi theo Mã Giám Sinh tâm trạng Kiều vô cùng dằn vặt, đau đớn bởi mình là kẻ phụ bạc chàng Kim. Nhưng chỉ khi người em gái Thúy Vân đến hỏi han nàng mới bày tỏ nỗi niềm và nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng giúp mình:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Câu thơ của Kiều vô cùng tha thiết, khẩn khoản, đặt tất cả niềm tin, niềm hi vọng vào Thúy Vân. Các từ cậy, nhờ, chịu đã cho thấy thái độ chân thành, tha thiết kết hợp với hành động lạy, thưa dường như đã đặt Vân vào tình thế buộc phải nhận lời trả nghĩa cho Kim Trọng của chị. Nhưng đồng thời ta cũng cần thấy, những hành động tha thiết, khẩn khoản của Kiều dành cho em là bởi cô hiểu việc mình nhờ em là điều vô cùng khó xử cho em, bởi Thúy Vân vốn không có tình cảm với Kim Trọng, dùng những từ ngữ đó khiến cho Thúy Vân vô cùng cảm động và cảm thương cho số phận mối tình của chị.
Kiều không nói quá nhiều về hoàn cảnh của bản thân, bởi chuyện ấy hơn ai hết Vân là người hiểu rõ nhất. Bởi vậy, Thúy Kiều sau khi nói về nỗi bất hạnh của mình, nàng tiếp tục thuyết phục Thúy Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.
Nàng sử dụng hàng loạt các từ ngữ: tình máu mủ, thịt nát xương mòn, lời nước non có tác dụng lớn trong việc thuyết phục Thúy Vân. Nàng ràng buộc Vân bằng tình ruột thịt, máu mủ lại cầu khẩn em cho mình chút vui, chút ơn vì đức hi sinh cao cả của em. Lời thơ vừa thuyết phục, vừa cầu khẩn, lại vừa ràng buộc đã giúp Kiều diễn đạt được mục đích của mình: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Nhưng khi nguyện ước của nàng đạt được thì đó cũng là lúc bi kịch tình yêu của nàng bị đẩy lên đến đỉnh điểm. Nàng chỉ trao duyên cho em với Kim Trọng còn tình yêu, kỉ niệm nàng nào dễ dàng trao gửi như vậy. Tâm trạng nàng bị giằng xé giữa lý trí và trái tim. Thúy Kiều tìm về cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: để lại kỉ vật và linh hồn.
Nàng trao cho Vân kỉ vật tình yêu của mình và Kim Trọng: chiếc vành, bức tờ mây, nhưng đồng thời nàng cũng mong rằng những kỉ vật ấy nàng vẫn sẽ hiện diện trong tình yêu. Những kỉ vật đẹp đẽ ấy gắn liền với những ngày tháng đẹp đẽ nhất trong cuộc đời nàng, đó là những kỉ niệm thiêng liêng, kỉ niệm riêng của nàng và Kim Trọng, Kiều không bao giờ muốn trao nó cho một ai khác dù đó có là em của mình. Từ “của chung” gợi lên bao đau đớn, xót xa: “Duyên này thì giữ vật này của chung”. Hiện thực tươi đẹp đã trở thành quá khứ, kỉ vật vẫn còn đó nhưng đối với tình yêu Kiều đã không còn hiện diện nữa. "Có nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người thì đã mất”. Con đường nàng Kiều lựa chọn để trở về tình yêu đã không thể thực hiện được.
Nàng cố chấp tìm đến con đường khác, đó là bằng linh hồn bất tử: “Trông ra ngọn cỏ lá cây/ Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Nàng mong khi linh hồn mình trở về sẽ nhận được sự đồng cảm từ người thương mà rưới cho nàng giọt nước thác oan. Nhưng sự trở về ấy chỉ mình nàng hay, người sống đâu biết, bởi vậy sự trở về bằng linh hồn bất tử cũng chỉ là sự trở về không có gặp gỡ, rơi vào ngõ cụt. Kiều trở về thực tại và càng đau đớn xót xa hơn. Nàng ý thức sâu sắc về cái thực tại, về hoàn cảnh của bản thân: nước chảy hoa trôi, trâm gãy gương tan, tơ duyên ngắn ngủi, phận bạc như vôi. Càng ý thức rõ bao nhiêu bi kịch của nàng càng bị đẩy lên bấy nhiêu. Nỗi đau đẩy lên đến đỉnh điểm, đang trò chuyện với Thúy Vân nàng đột ngột trò chuyện với Kim Trọng: “Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Sự hiện hữu của tình yêu làm Kiều quên đi sự hiện hữu của em gái, trong một câu thơ tên người nàng yêu thương – Kim Trọng được nhắc đến hai lần, kèm theo những ngữ điệu cảm thán đau đớn tuyệt vọng: Ơi, hỡi kết hợp với nhịp 3/3 đọc lên như tiếng nấc nghẹn ngào của nàng Kiều.
Đoạn trích Trao duyên đã cho thấy tấm lòng bao dung độ lượng, tình yêu thương cao cả Thúy Kiều dành cho mọi người. Trong hoàn cảnh bản thân vô cùng bất hạnh nhưng nàng không hề toan tính cho mình, chỉ lo nghĩ cho người khác. Đoạn trích đã một lần nữa khẳng định nhân cách đẹp đẽ của Thúy Kiều.
Bài tham khảo Mẫu 2
“Truyện Kiều” với 3245 câu thơ lục bát của đại thi hào Nguyễn Du là bức tranh chân thực về đời sống xã hội mỗi câu thơ đều thấm vào lòng người hơn nữa còn khắc họa muôn màu muôn vẻ chiều sâu tâm hồn con người Việt Nam. "Trao duyên" là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều. Đoạn trích đã tái hiện thành công diễn biến tâm lí phức tạp và sự giằng xé tâm trạng của Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.
Đoạn trích “Trao duyên” nằm ở câu thơ 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”. Đây cũng chính là quãng thời gian khép lại cuộc sống êm đềm, hạnh phúc của Kiều và mở ra đoạn đời phiêu bạt, đau khổ dằng dặc.
Do gia đình Thuý Kiều gặp biến cố nên nàng Kiều phải hy sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình cho Mã Giám Sinh nhằm cứu cha và em. Cuối cùng, những day dứt về mối tình mới chàng Kim đã khiến Kiều đi đến quyết định nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để trả nghĩa của Kim Trọng. Qua những hành động đó cho thấy tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều với cha mẹ, nàng là người sống có trách nhiệm với gia đình và là người trọng tình trọng nghĩa và chung thuỷ với người yêu của mình.
Những giây phút Kiều còn có thể làm chủ cuộc đời còn rất ngắn ngủi nên Kiều có đã sắp đặt buổi “Trao duyên”:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Đầu câu thơ đặt từ "Cậy" thể hiện sự tha thiết, khẩn khoản đưa Thuý Vân tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn đường lui của Kiều để cô Thuý Vân không thể từ chối với lời nhờ cậy đó của chị gái mình.. Tác giả dùng từ "Cậy" thay vì “nhờ” thể hiện tấm lòng của Thúy Kiều, một lòng tin tưởng trọn vẹn Thúy Vân.
Sau những lời mào đầu tha thiết, Thúy Kiều đã bày tỏ nỗi lòng của mình để thuyết phục Vân. Nguyễn Du đã thâm nhập vào sâu thẳm của nội tâm nàng Kiều và khắc họa tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp ấy. Đầu tiên, Kiều nói về đoạn tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Hoàn cảnh "đứt gánh tương tư" cho thấy sự đổ vỡ của tình yêu. Từ “gánh” vốn dùng để chỉ một khối lượng vật chất, còn “tương tư” lại là thứ vô hình, không cân đo được. “Keo loan” là thứ máu của chim loan mà giờ đây nàng phải dùng nó để chắp “mối tơ thừa”. Sau khi nhắc đến kỉ niệm tình yêu với Kim Trọng, cho thấy sự trân trọng của mình dành cho mối tình ấy, Kiều đã thuật lại biến cố đau thương khiến nàng rơi vào tình cảnh hiện tại để mong nhận được sự cảm thông, thấu hiểu từ em:
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Gia đình tai biến, Kiều đã đặt chữ “Hiếu” lên trên chữ “Tình”. Giờ đây, “Hiếu” đã phần nào vẹn toàn còn “Tình” đành nhờ Vân san sẻ giúp. Kiều dằn lòng mình, lấy lời lẽ khéo léo để khuyên em, thuyết phục em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Nàng sử dụng hàng loạt các từ ngữ: tình máu mủ, thịt nát xương mòn, lời nước non có tác dụng lớn trong việc thuyết phục Thúy Vân. Nàng ràng buộc Vân bằng tình ruột thịt, máu mủ lại cầu khẩn em cho mình chút vui, chút ơn vì đức hi sinh cao cả của em. Lời thơ vừa thuyết phục, vừa cầu khẩn, lại vừa ràng buộc đã giúp Kiều diễn đạt được mục đích của mình: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Những thành ngữ “tình máu mủ”, “lời nước non” thể hiện hàm ý tha thiết cậy nhờ em. Kiều đã phải viện đến tình ruột thịt để mong em nghĩ đến tình ấy mà giúp mình. Để thể hiện sự tôn trọng, trân quý dành cho Vân, Kiều còn lấy chính bản thân mình ra thuyết phục em:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Những thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối” đều ngầm chỉ cái chết. Thuý Kiều tự coi mình là một người sắp chết và đang nói lời trăng trối với người còn sống. Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng đã biết dùng lý trí đè nén tình cảm đúng lúc, đúng chỗ.
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phim đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Nghĩa cho Kim Trọng đã trả, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản, đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim và Kiều. Kiều bất ngờ cảm nhận được tương lai tan vỡ. Một bên là hạnh phúc nên vợ nên chồng của Vân, một bên là sự cô quạnh của nàng.
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, khác hẳn với không khí trang trọng lúc bắt đầu trao duyên. Một loạt từ ngữ, hình ảnh như “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch thân phận trái ngang. Nàng thương cho chính mình và lòng vẫn canh cánh “mang nặng lời thề” kể cả khi chết đi rồi. Chính vì thế, Thúy Kiều tha thiết dặn em:
“Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Dù có “cách mặt khuất lời” thì Vân hãy cứ rưới chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy Kiều vẫn có nhiều tâm tư ấm ức, oan uổng nên sau khi chết hồn oan không tan, không được siêu thoát.
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Trong câu thơ trên, việc Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan”. “Trâm” và “gương” vốn tượng trưng cho những hình ảnh đẹp đẽ về dung mạo của người con gái. Giờ đây, trâm đã gãy, gương đã tan chính là tuổi xuân tươi đẹp bị hủy hoại. “Muôn vàn ái ân” thể hiện rằng thứ tình cảm này không thể cân đo đong đếm được. Câu thơ một lần nữa cho thấy sự trân trọng, nâng niu dành của Kiều đối với mối tình đầu. Từ thời gian tâm trạng về thực tại, từ đối diện với chính mình, Thuý Kiều chuyển sang đối thoại với Kim Trọng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”
Tác giả đã dùng số từ “Trăm nghìn” để ước lệ về sự lớn lao, vô hạn trong sự đối lập với “ngần ấy thôi” thể hiện sự nhỏ bé, khiêm nhường. Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến chàng Kim, nhận lỗi về mình đã lỡ để cho “tơ duyên ngắn ngủi”. Lời thơ đã diễn tả bi kịch, nỗi đau đớn quằn quại của Thuý Kiều và khát vọng tình yêu mãnh liệt không thôi.
Nỗi đau cứ dâng lên không ngừng, Kiều đã rút hết nỗi lòng mà khóc nức nở cho thân phận của mình:
“Phận sao phận bạc như với
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình. Chính cái sắc, cái tài đã làm khổ nàng, để cung đàn “Bạc mệnh” đeo đuổi suốt đời người con gái.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác. Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế, cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.
Diễn biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau xót.
Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình, kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, các hình ảnh giàu giá trị biểu cảm cùng các điển tích điển cố để xây dựng đoạn trích “Trao duyên”. Đoạn trích đã cho thấy tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du, thể hiện niềm cảm thông, trân trọng của ông đối với những số phận bất hạnh và lên án gay gắt xã hội đồng tiền tước đi hạnh phúc con người.
Trân trọng nàng Kiều, chúng ta càng trân trọng cái tài và cái tâm của Nguyễn Du. Tiếng lòng của Kiều chính là tiếng lòng của rất nhiều con người, cuộc đời nàng đã đi vào tâm thức muôn người Việt Nam
Nguyễn Du đã sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, sáng tạo nêu bật nên vẻ đẹp về hình thể cũng như tâm hồn của nhân vật Thuý Kiều một người trọng chữ hiếu, trọng tình nghĩa hết lòng vì mối lương duyên đã hẹn ước tuy nhiên hồng nhan bạc phận khiến nàng đành phải cậy nhờ cô em với vẻ đẹp nghiên nước nghiêng thành như mình để thay thế vào chỗ trống với Kim Trọng. Nguyễn Du thật sự khéo léo và sáng tạo trong cách thể hiện nội tâm nhân vật. Đoạn trích đã một lần nữa khẳng định nhân cách đẹp đẽ của Thúy Kiều.
Bài tham khảo Mẫu 3
Nguyễn Du, một danh sĩ văn hóa lớn của văn hóa Việt Nam, để lại dấu ấn đặc sắc trong nền văn hóa bằng tác phẩm Truyện Kiều. Nơi đây, nàng Thuý Kiều, với tâm hồn thông minh và vẻ đẹp tâm lý sâu sắc, trở thành biểu tượng của sự đau đớn và nhân cách cao đẹp. Trích đoạn Trao duyên là điểm nhấn đặc biệt, với sự khéo léo của Nguyễn Du trong việc diễn đạt vẻ đẹp tinh tế và tâm hồn phong phú của nhân vật. Bài văn mẫu này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về Vẻ đẹp nhân cách của Thúy Kiều qua đoạn trích Trao duyên.
Đoạn trích Trao duyên bao gồm ba mươi ba câu thơ, là những dòng thơ đầu tiên của phần Gia biến và lưu lạc. Nơi đây, Kiều chia sẻ những tâm tư, những đau thương khi phải truyền lại mối duyên sâu sắc của mình cho em gái trước khi bước vào cuộc sống mới, bán mình để cứu cha và em. Trích đoạn này là tập hợp của những cảm xúc, những vẻ đẹp tinh tế trong nhân cách và tâm hồn của nàng Kiều.
Cơn gia biến đột ngột, để thể hiện lòng hiếu thảo, Thuý Kiều quyết định bán mình với giá bốn trăm lạng vàng để giải cứu cha và em trai. Tình yêu của nàng, nàng đành trao lại cho em gái để đền đáp cho Kim Trọng. Dù mới chỉ là một thiếu nữ xinh đẹp và trí tuệ, Kiều vẫn tỏ ra thông minh, sắc sảo và khôn ngoan khi nhờ em gái trả nghĩa tình duyên nợ cho chàng Kim.
Kiều đã mở lời với Vân bằng những từ ngữ và thái độ rất cẩn trọng. Nàng nói với em như thế này:
“Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Hai dòng thơ này đã hoàn toàn thể hiện sự sắc sảo, thông minh trong lời của Kiều. Việc trao duyên là điều hiếm hoi, nên nàng đã nói với em bằng từ ngữ “cậy em”. Một từ “cậy” đã truyền đạt toàn bộ nỗi niềm của Kiều. “Cậy” mang theo trọng trách lớn, và em gái Thuý Vân không thể từ chối. Thuý Kiều sử dụng từ ngữ tôn kính như “lạy, thưa” để bắt đầu câu chuyện với Vân, bởi sau sự kiện này, nàng biết mình sẽ phải ơn nàng suốt đời.
Mọi lời nói, hành động của Kiều đều đằng sau sự chân thành, khẩn thiết. Bởi nàng hiểu Thuý Vân còn nhỏ, nàng cũng biết rằng nếu Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng, sẽ gây thiệt thòi cho Vân. Dù chỉ là một cô gái trẻ, nhưng Kiều tỏ ra thông minh và sắc sảo khi nhờ em trả nghĩa tình duyên nợ cho chàng Kim.
Tuy nhiên, sự thông minh của Kiều còn lộ rõ qua những lý lẽ mà nàng sử dụng để thuyết phục Thuý Vân. Trước hết, nàng kể về mối tình của mình với Kim Trọng với sự tha thiết. Nhưng “sự đâu sóng gió bất kỳ” đã làm tan vỡ mối tình đẹp như mơ. Kiều diễn đạt tình yêu của mình cùng với sự đau buồn và tình hình hiện tại khó khăn của mình. Là chị lớn trong gia đình, nàng phải đối mặt với trách nhiệm lớn khi cha và em trai bị bắt đi, và nàng chọn chữ hiếu. Quyết định đau đớn này là sự hy sinh lớn, nhưng Kiều hy vọng Vân, vì tình ruột thịt, sẽ đồng ý giúp đỡ. Nàng chỉ cần vậy thì Kiều sẽ cam lòng, và mỗi từ của nàng đều chứa đựng cảm xúc chân thành và đau đớn tận cùng:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.
Qua những lời nói và lý lẽ của Kiều, thấy nàng là người con gái thông minh, tinh tế và sắc sảo.
Nàng không chỉ là cô gái thông minh mà còn là người con hiếu thảo, chung thuỷ với người yêu. Trước khó khăn, nàng chọn chữ hiếu, bán mình để cứu cha và em, hy sinh tình cảm, tình yêu với tình lang.
Nàng là người con gái trọn tình, chung thuỷ với tình yêu. Lời hẹn ước và kỉ vật của hai người vẫn sống mãi trong trái tim nàng. Trong thời khắc trao duyên, nàng chia sẻ tình yêu của mình, nhưng tình cảm với Kim Trọng sẽ mãi mãi trong trái tim nàng:
“Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này giữ, vật này của chung”
Trao đi kỷ vật, trao đi mối duyên nhưng trong trái tim Kiều vẫn mãi nhớ đến tình yêu của mình. Nàng tin rằng, tới khi lìa khỏi thế gian, những lời thề nguyền trong đêm trăng sẽ vẫn theo nàng sang thế giới bên kia:
“Hồn vẫn đeo bồ liễu đền
Lời thề nặng trĩu, tình nồng mãi thêm”
Chỉ còn một ngày nữa, nàng sẽ rời xa tình yêu của đời mình. Trong lòng Kiều tràn ngập sự xót xa khi nhắc về Kim Trọng:
“Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”
Lời thơ truyền đạt tiếng kêu thảm của Kiều, làm ta hiểu rõ tình yêu của nàng với Kim Trọng làm thế nào, chung thuỷ và giàu ân nghĩa đến đâu!
Kiều, thông minh và sắc sảo, hiếu thảo và thuỷ chung, nhưng cũng không thoát khỏi những tai họa cuộc đời. Với trọng trách làm người chị lớn trong gia đình, Kiều chấp nhận gánh vác mọi khó khăn, mọi thương tổn. Nàng hy sinh tất cả vì gia đình, vì cha mẹ, với tình yêu sâu nặng của mình. Nàng không giữ lại gì cho bản thân, nhưng không bao giờ oán trách. Kiều là người con gái với tấm lòng cao cả và lòng vị tha. Liệu có ai có thể hi sinh như nàng, hy sinh nhiều hơn nàng hay không? Việc bán mình để lấy vàng cứu người thân, đồng thời trao đi tình yêu của mình, là đủ để thấy rõ sự hi sinh của Kiều!
Trong xã hội xưa, chữ trung chữ hiếu được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, quyết định của Kiều chọn chữ hiếu thay vì chữ tình không có gì lạ. Tuy nhiên, Kiều khác biệt, nàng chọn chữ hiếu và cảm thấy có lỗi với Kim Trọng. Nàng cho rằng mọi lỗi lầm đều là của mình, nàng đã phụ lòng chàng. Nỗi đau, sự dày vò vì mối tình vỡ tan hiện hữu trong tâm hồn Kiều:
“Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ân ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao, phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Kiều như đang chia sẻ với Kim Trọng, kể về những đau thương sâu thẳm trong tâm hồn. Mối tơ duyên đẹp nhưng quá ngắn ngủi, nàng phải “gửi lạy tình quân” để xin lỗi chàng. Nghe xót xa, day dứt! Cuối cùng, trong tuyệt vọng, Kiều thốt lên trong câm lặng:
“Ôi Kim lang, hỡi Kim lang
Thôi thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây”
Đó là tiếng khóc xé lòng trong câm lặng của Kiều khi tự tay cắt đứt mối tơ duyên để bắt đầu một cuộc sống truân chuyên, lênh đênh cuối cùng của kiếp hồng nhan.
Trao duyên là đoạn trích nổi bật thể hiện nhân cách của Kiều một cách trọn vẹn. Không chỉ là lời nói thông minh, sắc sảo mà còn là sự hiếu thảo, thuỷ chung, lòng vị tha và đức hi sinh cao cả. Bao phủ đoạn trích là lối ứng xử khéo léo, thấu tình đạt lý của một người con gái trong xã hội xưa. Đồng thời, ta thấy tấm lòng của đại thi hào Nguyễn Du dành cho phụ nữ trong xã hội phong kiến, tràn đầy sự trân trọng và ngợi ca
- Viết đoạn văn phân tích một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo trong Truyện Kiều
- Viết đoạn văn chỉ ra biểu hiện của sự “hiểu” và “thương" trong Trao duyên
- Cảm nghĩ của bạn về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Thúy Kiều
- Phân tích bài thơ “Độc tiểu thanh kí” của Nguyễn Du
- Phân tích Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí”
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề: Sự ảnh hưởng của bùng nổ dân số lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về tác hại của mạng xã hội lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng tiêu cực trong thi cử lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng vô cảm lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề an toàn giao thông lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề: Sự ảnh hưởng của bùng nổ dân số lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về tác hại của mạng xã hội lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng tiêu cực trong thi cử lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng vô cảm lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề an toàn giao thông lớp 11