Cảm nghĩ của bạn về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Thúy Kiều>
1. Mở bài -Giới thiệu vấn đề cần phân tích. - Đề tài người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
-Giới thiệu vấn đề cần phân tích.
- Đề tài người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
2. Thân bài
Thân phận người phụ nữ trong Truyện Kiều:
* Hoàn cảnh của Thúy Kiều:
+ Thúy Kiều là con gái nhà giàu, lại có nhan sắc chim sa cá lặn, tài văn chương thơ phú "thông minh vốn sẵn tính trời", thêm ngón hồ cầm tinh thông.
+ Kiều có lẽ là hình tượng người con gái mang vẻ đẹp toàn diện và tuyệt đối trong văn học Việt Nam.
+ Bản thân Thúy Kiều còn có tự do lựa chọn cho mình một tình yêu đẹp với Kim Trọng, thậm chí cả hai đã đến hồi đính ước.
* Thân phận bọt bèo, hồng nhan bạc mệnh:
+ Nhà Kiều lâm đại nạn, cha và em bị bắt giải đi, Thúy Kiều đành phải bỏ "tình", theo "hiếu", bán mình làm lẽ cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em, bội ước với Kim Trọng, nhờ em gái của mình là Thúy Vân trả nghĩa cho chàng.
+ Thân phận phụ nữ trong chế độ phong kiến quả thực quá mong manh và nhỏ bé. Mới hôm trước còn là tiểu thư đài các, thì ngày nay đã trở thành một món hàng được người ta ngã giá, trở thành thiếp cho một người đàn ông đáng tuổi cha chú, phải nén đau thương từ biệt gia đình, từ bỏ tình yêu đầu đời.
→ Nhan sắc, tài năng của người phụ nữ đứng trước tư tưởng trọng nam khinh nữ, trước sự bất công của xã hội hoàn toàn không có một chút phân lượng nào, cùng lắm chỉ đáng giá vài ba trăm lượng bạc trắng, đổi một kiếp người.
+ Thúy Kiều phải sống một cuộc đời đau đớn, khổ sở, tuyệt vọng trăm bề trong lầu xanh sau nhiều lần bị lừa dối bởi những gã đàn ông đáng ghê tởm.
+ Khi Thúy Kiều gặp Thúc Sinh, Kiều lại rơi vào nỗi khổ ải với chế độ đa thê phong kiến, một lần nữa phải gánh chịu những nhục nhã, chèn ép từ người vợ cả của Thúc Sinh, lần nữa chịu áp bức dưới cường quyền.
→ Nhan sắc, tài năng của nàng trở thành thứ khiến người ta ghen ghét, đố kỵ và tìm cách trừ khử.
→ Thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến phải chịu quá nhiều bất công và khổ sở, không chỉ vậy tài năng và nhân phẩm của họ cũng không hề được coi trọng và đánh giá một cách đúng đắn.
3. Kết bài
-Khái quát giá trị tác phẩm và lên tiếng đồng cảm cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến..
Bài tham khảo Mẫu 1
Cuộc đời và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến lạc hậu, bất nhân có lẽ là nguồn đề tài chính trong sáng tác văn học của các tác giả trung đại thể hiện cảm quan hiện thực và khuynh hướng tư tưởng có màu sắc nhân văn. Bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc cho thân phận người phụ nữ qua cuộc đời chìm nổi truân chuyên đầy sóng gió của người thiếu nữ tài sắc đức hạnh Vương Thúy Kiều, đại thi hào Nguyễn Du đã phải thốt lên :
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Truyện Kiều được coi là tập đại thành của đại thi hào Nguyễn Du và của nền văn học thế giới không chỉ bởi những giá trị nghệ thuật đặc sắc mà tác giả đạt được khi chuyển tải từ một thể loại tiểu thuyết sang truyện thơ mà hơn hết đó chính là tư tưởng nhân đạo sâu sắc qua cách khai thác nội dung tác phẩm. Nhà thơ đã xây dựng hình tượng nhân vật Thúy Kiều với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng số phận lại bất hạnh để rồi lên án, tố cáo xã hội; ngợi ca tài năng, nhan sắc, phẩm hạnh của người phụ nữ và bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc cho số phận của họ. Qua nhân vật Thúy Kiều và cuộc đời chìm nổi của nàng, người đọc thấy hiện lên cả một xã hội phong kiến thối nát với những ung nhọt và nỗi đau thương, bất hạnh của con người chủ yếu là người phụ nữ.
Mở đầu cho Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Vâng! Truyện Kiều chính là những điều đau đớn mà tác giả được thấy, được chứng kiến mà xót xa. Những điều thay đổi chóng mặt như bãi biển hóa nương dâu khiến lòng ta không khỏi ngậm ngùi chua xót. Còn gì đau đớn hơn khi một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, hiếu tình hòa hợp như Thúy Kiều lại phải chịu số phận bi đát với mười lăm năm lưu li oan khổ, nếm đủ mọi cay dắng đoạn trường? Thật bất công thay, trong cái xã hội phong kiến thời kì suy sụp, thối nát ấy, cái đẹp thường đi liền với nỗi bất hạnh và những tai hoạ khôn lường.
Trong những trang thơ đầu tiên giới thiệu về gia cảnh nhà Thuý Kiều, Nguyễn Du đã dành cho nàng kiều những vần thơ hay nhất để giới thiệu vẻ đẹp cũng như tài năng của nàng. Vẻ đẹp của nàng “ sắc sảo mặn mà”, vẻ đẹp ấy khiến “thành nghiêng nước đổ”, nàng giỏi cả cầm, kì, thi, họa, tài năng của nàng có thể coi là đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm đạo đức nho gia. Người như nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Ấy vậy mà tai họa lại ập đến cuộc đời nàng ngay ở độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời – cái tuổi “ cập kê”. Chỉ về mấy lời nói hàm hồ của tên bán tơ, chỉ vì sự mịt mờ của cán cân công lí mà tai bay vạ gió đến với gia đình nàng, làm thay đổi cuộc đời nàng. Một người con hiếu thảo như nàng tất không thể để cha và em bị hành hạ, nàng quyết định bán mình chuộc cha, phải từ bỏ mối tình đầu say đắm với Kim Trọng để giữ tròn đạo hiếu. Bàn tay hắc ám của những kẻ buôn thịt bán người vô nhân đạo Mã Giam Sinh, Tú Bà đã đưa nàng từ một tiểu thư khuê các rơi vào chốn lầu xanh, chịu bao nỗi ê chề bướm lả ong lơi để rồi nàng phải xót xa than cho thân phận mình:
“Khi tỉnh mộng, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Xưa sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió, dạn sương
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân.”
Quá khứ và hiện tại sao khác vời, quá khứ ấm êm mà sao hiện tại nghiệt ngã? Ai sẽ giúp nàng trả lời câu hỏi này đây!
Ngỡ tưởng kiếp phong trần sẽ chấm dứt khi nàng được Thúc Sinh cứu giúp khỏi chốn lầu xanh. Nhưng bất hạnh thay, hai tiếng bạc mệnh đã đi theo nàng khó bề dứt bỏ. Nàng bị Hoạn Thư – vợ của Thúc Sinh chà đạp cả thể xá lẫn tinh thần, nàng bỏ chốn khỏi nhà họ Hoạn những mong thoát khỏi kiếp tai ương vậy mà cái số “ hoa đào” lại một lần nữa chói buộc lấy đời nàng. Nàng rơi vào tay Bạc Bà cũng là “phường buôn thịt bán người” như Tú Bà, lần thứ hai nàng rơi vào lầu xanh. Oán hận, uất ức, Nguyễn Du đã phải căm phẫn mà thốt lên:
“ Chém cha cái kiếp hoa đào
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi ”
Những ngày tháng ở tại lầu xanh của Bạc Bà, chịu bao nỗi ê chề, cay đắng, may mắn đến khi nàng gặp được Từ Hải – một người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất “ Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”. Cảm phục tấm lòng son sắt và phẩm chất đức hạnh của nàng Kiều, Từ Hải đã cứu nàng thoát khỏi kiếp lầu xanh nhơ nhuốc và lấy nàng làm vợ, giúp nàng được đền ân báo oán. Khoảng thời gian sống bên Từ Hải là khoảng thời gian hạnh phúc nhất, bình yên nhất đối với nàng kể từ khi gia đình li tán. Từ Hải đối với nàng không chỉ là tri âm tri kỉ mà còn là ân nhân. Nhưng phúc đoản, hạn trường, đau đớn biết bao nhiêu khi chính nàng lại là kẻ tiếp tay giết chếtTừ Hải. Vì mắc mưu quan tổng đốc trọn thần Hồ Tôn Hiến, nàng đã khuyên Từ Hải ra hàng, để rồi khát vọng hạnh phúc chưa thấy đâu nàng đã phải gục ngã dưới cái chết đứng “ Trơ như đá, vững như đồng” của người anh hùng Từ Hải. Nỗi đau đớn chưa kịp nguôi ngoai, nàng lại bị Hồ Tôn Hiến ép gả cho một viên thổ quan khi mà nấm mồ Từ Hải chưa kịp xanh ngọn cỏ. Tuyệt vọng đến cùng đường, nàng tìm đến sông Tiền Đường tự vẫn:
“Một mình cay đắng trăm đường
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi.”
Chẳng còn luyến lưu gì nữa, nàng lao mình xuống con sông có thủy triều dữ dội kinh hoàng nhất như muốn tan đi trong con sóng dữ một kiếp giai nhân oan trái đoạn trường.
Sóng Tiền Đường không nỡ tước đi cuộc sống của nàng, có phải cho nàng được sống những mong được đáp đền hạnh phúc về sau? Nàng không chết, nàng gặp được sư bà Giác Duyên và lần thứ hai nàng nương nhờ cửa phật. Nàng đã gặp lại Kim Trọng- người mà trong suốt mười lăm năm lưu lạc nàng không bao giờ quên- hình bóng của mối tình đầu thắm thiết. Tuy nhiên đó vẫn chưa phải là cái kết cho bi kịch của Thuý Kiều, bởi vì tấm thân nàng đã không còn trong trắng, cuộc đời “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” không cho phép nàng mặn mà với Kim Trọng như xưa. Tuy sum họp nhưng mối tình đầu trong sáng, đắm say của “ Người quốc sắc, kẻ thiên tài” mãi mãi không còn nữa. Kim – Kiều đoàn tụ nhưng giữa họ giờ đây“ Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Cuộc đời lưu li oan khổ của Kiều chấm dứt sau mười lăm năm đoạn trường cay đắng. Người đọc xót thương cho số phận nàng Kiều, căm giận chế độ phong kiến bất nhân dung túng cho những thế lực hắc ám chà đạp cuộc đời nàng. Thế lực hắc ám ấy là ai? Đó là bọn quan lại sai nha bỉ ổi, dâm ô, tráo trở, một bên là những kẻ đã vì ăn hối lộ của thằng bán tơ mà vu oan cho Vương Ông, một bên là Hồ Tôn Hiến nổi tài lật lọng. Đó chính là bọn buôn người Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh Bạc Bà, chuyên nghề kiếm ăn ở miền nguyệt hoa, đã hai lần đưa Kiều vào lầu xanh- chốn bụi trần đầy rẫy nỗi ê chề nhục nhã, “ong qua bướm lại” xấu xa, coi nàng như một món đồ quý hái ra tiền. Đó chính là Hoạn Thư, Hoạn Bà- hai con người nham hiểm nanh nọc, ỷ thế danh gia, sẵn sàng làm những chuyện vô lương tâm nhất, chôn vùi danh dự Kiều vào tận cùng nỗi đau đớn, ê chề để thoả mãn cơn ghen. Cuộc đời sóng gió, đáng thương của Kiều là xã hội phong kiến thối nát, xã hội ấy đã tước đi của con người quyền sống chính đáng, biến vẻ đẹp thành thứ để mua bán, tài năng bị đem ra để mua vui và hiếu tình bị đem làm vật trao đổi. Số phận long đong, chìm nổi của Kiều đã nói lên tiếng nói khát vọng cho một xã hội bình đẳng, hạnh phúc.
Như vậy, chế độ phong kiến với nhiều tục lệ, quy định cổ hủ, khe khắt đè nặng lên cuộc đời “phận má hồng”. Người phụ nữ dưới chế độ Nam quyền độc đoán ấy phải chịu nhiều thiệt thòi, đau đớn: Người con gái Nam Xương- Vũ Nương ko thể giãi bày nỗi oan khiên nên phải trầm mình, nàng Kiều phải bán mình, phải mười lăm năm đoạn trường lưu lạc. Cho dù cuối cùng, Vũ Nương đã được “sống lại” ở thế giới tâm linh, Kiều đã vui vầy bên Kim Trọng; nhưng Vũ Nương vẫn không thể nào có được hạnh phúc như một phụ nữ bình thường, vui vẻ bên chồng con, và vĩnh viễn Kiều không thể nào tìm lại được tình yêu sôi nổi thiết tha mười lăm năm về trước, vẫn phải chịu tai tiếng ê chề. Như vậy, cả hai tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều đã cho thấy rằng hiện thực tàn nhẫn của xã hội cũ sẽ còn đeo đuổi số phận của con người mãi mai. Hoàn cảnh bi kịch đã chấm dứt nhưng tâm lí bi kịch vẫn tồn tại. Và chỉ qua hai tác phẩm trên, chúng ta có thể nhận thấy rõ xã hội phong kiến tàn ác ra sao, nhẫn tâm thế nào, bằng chứng là cuộc đời long đong của Vũ Nương và Thuý Kiều, và ta càng căm phẫn trước những thế lực phong kiến đen tối, hủ lậu chà đạp lên quyền hưởng hạnh phúc, quyền được sống của con người.
Cuộc đời và số phận của nàng Kiều chính là hiện thân cho những đau khổ, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Viết Truyện kiều, Nguyễn Du đã cất lên tiếng kêu thương đứt ruột xé lòng về thân phận người phụ nữ. Mỗi chúng ta cần hiểu và trân trọng cuộc sống hiện tại khi mà vị trí và vai trò của người phụ nữ ngày một nâng cao. Ở đâu mà người phụ nữ chưa được thực sự giải phóng và thực sự tôn trọng thì tiếng kêu khẩn thiết hãy bênh vực và bảo vệ phụ nữ vẫn còn tính thời sự nóng hổi của nó, cho dù nó đã được các thi sĩ cất lên đã nhiều thế kỉ.
Bài tham khảo Mẫu 2
Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý Kiều trong “Truyện Kiều”. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài bốn trăm lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nỗi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều". Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói "Hồng nhan thì bạc phận" nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vi xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc. Số phận vương Thuý Kiều là một tấn bi kịch, bi kịch tình yêu, mối tình đầu tan vỡ. Nàng phải bán mình chuộc cha, thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Hai lần tự tử, hai lần đi tu, hai lần phải vào lầu xanh, hai lần làm con ở quyền sống và quyền hạnh phúc bị cướp đoạt nhiều lần. Tấm lòng trong trắng, trinh bạch của người con gái tài sắc vẹn toàn như bèo dạt mây trôi. Suốt mười lăm năm đoạn trường lưu lạc, nàng Kiều đã phải chịu biết bao nhiêu cay đắng, tủi nhục dày vò bản thân. Nỗi đau đớn nhất của nàng là nỗi đau khi phẩm giá của con người bị chà đạp, lòng tự trọng bị sỉ nhục:
“Thân lươn bao quản lấm đầu
Tấm lòng trinh bạch lần sau xin chừa.”
Như cánh bèo trôi trên ngọn sóng, như cánh buồm trôi dạt trên biển khơi, cuộc đời Kiều trôi dạt, lênh đênh đến tận cùng của bến bờ khổ ải. Giữa trời cao bể rộng không có chỗ dung thân cho một con người. Dù con người ấy chỉ có một nguyện vọng đơn giản là được sống bình yên bên cạnh cha mẹ, được yêu thương chung thủy với người mình yêu. Kiều là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, xét về nhan sắc. Trong nhân gian chỉ có Kiều là nhất, còn về tài năng thì ngoài nàng ra may ra có người thứ hai là Đạm Tiên. Ngòi bút của nhà thơ viết về Kiều có lẽ đã đạt đến độ cực đỉnh, không còn có một từ ngữ nào có thể miêu tả được về tài sắc của nàng nữa. Bên cạnh cái tài, cái sắc, Nguyễn Du còn ca ngợi Kiều là một người có tình có nghĩa. Kiều là một người phụ nữ thủy chung, bị bán vào lầu xanh nhưng nguyện lấy cái chết để bảo vệ danh tiết cho mình. Nàng là một người con có hiếu, khi không hề nghĩ đến hạnh phúc riêng của bản thân mình, sẵn sàng “bán mình chuộc cha”, giúp gia đình thoát khỏi cơn hoạn nạn. Kiều làm tròn đạo hiếu, báo đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Trong suốt quãng đời lưu lạc dài dằng dẵng, Kiều không bao giờ cam chịu, không bao giờ chịu khuất phục, trong ý thức, nàng luôn là “con người chống đối”, là “kẻ nổi loạn”. Nàng vượt ra khỏi chốn lầu xanh ô nhục của Tú Bà, Bạc Bà, trốn khỏi chốn “hang hùm nọc rắn” của nhà quý tộc họ Hoạn, cuối cùng đến được với người anh hùng Từ Hải. Và cuối cùng nàng đã đền ơn, trả oán, minh bạch, công khai. Kiều là hiện thân của người phụ nữ có khát vọng tự do, công lý và chính nghĩa.
Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cao cả, Nguyễn Du đã miêu tả chân thực và đầy xót xa số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về những người đàn bà bất hạnh, đẹp người đẹp nết này, các nhà văn, nhà thơ đã dành một sự ca ngợi, một sự nâng niu vô bờ bến. Chúng ta cảm nhận được điều đó và càng thương xót cho thân phận của họ hơn bao giờ hết.
- Phân tích bài thơ “Độc tiểu thanh kí” của Nguyễn Du
- Phân tích Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí”
- Diderot – nhà văn , nhà triết học Pháp thế kỉ thứ 18 từng cho rằng : “Nghệ thuật là chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường” Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua đoạn trích “Độc Tiểu Tha
- So sánh nội dung hai câu luận của Độc Tiểu Thanh kí với hai câu thơ của Truyện Kiều Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
- Viết đoạn văn chỉ ra biểu hiện của sự “hiểu” và “thương" trong Trao duyên
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề: Sự ảnh hưởng của bùng nổ dân số lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về tác hại của mạng xã hội lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng tiêu cực trong thi cử lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng vô cảm lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề an toàn giao thông lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề: Sự ảnh hưởng của bùng nổ dân số lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về tác hại của mạng xã hội lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng tiêu cực trong thi cử lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng vô cảm lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề an toàn giao thông lớp 11