Văn mẫu lớp 11 - Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức Bài 1: Câu chuyện và điểm nhìn trong truyện kể - Văn mẫ..

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân


1. Mở bài - Giới thiệu tác giả, tác phẩm + Kim Lân (1921-2007) là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam đương đại.

Tổng hợp đề thi học kì 2 lớp 11 tất cả các môn - Kết nối tri thức

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

+ Kim Lân (1921-2007) là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam đương đại.

+ Truyện ngắn  Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945.

- Giới thiệu khái quát giá trị nhân đạo của tác phẩm: "Vợ nhặt" của Kim Lân đã thổi làn gió mát, đem hi vọng vào tương lai tươi sáng cho người đọc bằng giá trị nhân đạo sâu sắc.

II. Thân bài

* Khái quát về tác phẩm

- Hoàn cảnh sáng tác:  Vợ nhặt in trong tập Con chó xấu xí, tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được Kim Lân viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.

- Nội dung chính: Truyện ngắn viết về tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đồng thời thể hiện bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ ngay trên bờ vực của chết.

* Luận điểm 1: Xót xa thương cảm với cuộc sống bi thảm của người dân nghèo trong nạn đói năm 1945.

+) Nạn đói khủng khiếp năm 1945

- Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư.

- Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế nhau lên, xám lại như những bóng ma.

- Buổi sáng nào cũng có vài người chết còng queo bên đường, tỏa mùi gây gây của xác chết.

- Toàn bộ câu chuyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy: Cảnh xóm ngụ cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về; tiếng hờ khóc trong đêm, mùi đốt đống rấm.

+) Tình cảnh của gia đình Tràng

- Tràng: nghèo, không lấy nổi vợ.

- Vợ Tràng: Vì đói mà phải theo không về làm vợ, không có cưới cheo gì.

- Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới (nồi cháo loãng và bát cám).

+) Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ

- Truyện đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng: mái ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ, sáng lên niềm tin hy vọng của họ.

- Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ: Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là chuyện tầm phào đến lúc xem đó là chuyện nghiêm chỉnh của đời mình (Dẫn và phân tích những lời nói, hành động của Tràng khi mới gặp người đàn bà và trong cảnh đưa chị ta về nhà).

- Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị:

+ Điển hình là nhân vật người  vợ nhặt, vì quá túng quẫn thị không quan tâm đến danh dự cứ vin vào lời nói đùa của Tràng mà “cong cớn đòi ăn”, còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ.

+ Chính Tràng cũng vậy, vì quá nghèo khổ mà khó có thể lấy vợ, đến khi lấy được vợ cũng là nhờ hoàn cảnh éo le.

* Luận điểm 2: Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta

- “đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế”, chúng không cho nhân dân ta con đường sống, đẩy nhân dân đến bước đường cùng.

- Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc sưu thuế, bà cụ Tứ cũng tuyệt vọng kêu lên rằng: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”.

* Luận điểm 3: Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người

- Ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người: Một mặt ta thấy người  vợ nhặt như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là khát vọng sống mãnh liệt của thị, thị không từ bỏ bất cứ cơ hội nhỏ nhoi nào để được sống tiếp, ngay cả việc theo không người ta về làm vợ.

- Ở Tràng ta thấy có một khát vọng hạnh phúc chân thành, không phải vì ngờ nghệch mà anh dẫn người  vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một gia đình như bao người bình thường khác.

- Vẻ đẹp của lòng thương người: vì tình thương người chân thành mà Tràng sẵn sàng mời thị ăn dù không dư dả, vì thương người mà bà cụ Tứ chấp nhận người con dâu được nhặt về dù trong cảnh đói khổ.

- Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn luôn có niềm tin vào cuộc sống:

+ Người  vợ nhặt nhắc đến cảnh đoàn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho bà cụ Tứ và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự tính những chuyện tương lai, khuyên bảo các con.

* Luận điểm 4: Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn

- Từ câu chuyện phá kho thóc mà người  vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ đỏ trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc có thể tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đoàn người vùng lên tổng khởi nghĩa.

→ Tư tưởng nhân đạo hướng về quần chúng lao động, khẳng định phẩm chất và sức sống bền bỉ của họ, đặt niềm tin vào những khát vọng bình dị mà chân chính để sống, khát khao tình thương và sự gắn bó, nương tựa vào nhau đã cho họ niềm tin để sống.

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nhân đạo trong truyện  Vợ nhặt

- Nêu cảm nhận, đánh giá, nhận xét của bản thân.

Bài tham khảo Mẫu 1

Tác phẩm " Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân có giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc thông qua tình huống truyện độc đáo đó chính là tình huống nhặt được vợ. Tác giả cho chúng ta thấy cuộc sống tối tăm của người dân lao động trong nạn đói lịch sử năm 1945 và những khát khao mãnh liệt của họ. Giá trị nhân đạo là một giá trị tạo nên thành công của tác phẩm văn học chân chính. Nó tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của tác giả với những nhân vật của mình. Những người nông dân khốn khổ, bần hàn trong cuộc sống.

Tác phẩm bộc lộ rõ những cảm xúc xót xa đối với kiếp người thê thảm trong nạn đói lịch sử làm chết hai triệu người. Thông qua đó, tác giả muốn tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây ra nạn đói này làm cho dân ta khốn khổ. Câu chuyện được viết trong một xóm ngụ cư, toàn những người dân tứ xứ về ở chung tập hợp thành một xóm ngụ cư mới, trong sự nghèo khổ đến tận cùng của cảnh vật xung quanh và những nếp nhà lụp sụp.

Trên con đường về xóm ngụ cư ấy ánh sáng hiện lên vô cùng mờ mịt, leo lét những con người đi lại như những bóng ma. Xác người chết chưa kịp chôn cất nằm ngổn ngang, bên cạnh những người sống vật vờ không có nơi cư trú, mùi xác thối bốc lên, rồi từng bầy quạ đến cứ gào lên thê thiết. Bên cạnh đó văng vẳng là tiếng trống thúc thuế, những đứa trẻ thì ngồi trong những xó đường không buồn nhúc nhích bởi chúng quá đói và mệt mỏi nên không còn sức lực để vui đùa chạy nhảy nữa

Trong bối cảnh nghèo đói ấy một người xấu xí như nhân vật Tràng, hai con mắt ti hí, quai hàm bạnh ra, đường nét thô kệch làm nghề kéo xe thuê, nghèo khó sống cảnh mẹ góa con côi lại nhặt được vợ. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn còn thể hiện trong lòng tin sâu sắc vào việc những nhân vật trong tác phẩm tin tưởng vào tương lai, sự đổi đời. Nhân vật anh cu Tràng tuy có vẻ ngoài xấu xí nhưng tiềm ẩn bên trong là sự cảm thông biết thương yêu người khác, che chở giúp đỡ người khác trong cảnh khốn khổ

Trong hoàn cảnh nghèo khó nhưng Tràng vẫn hào phóng đãi thị bốn bát bánh đúc, rồi lần sau gặp Tràng cũng quan sát người phụ nữ này dường như thị gầy hơn, cái áo rách tả tơi cắp cái thúng con. Có lẽ từ giây phút đó Tràng đã nổi lên sự trắc ẩn trong lòng, muốn cho người phụ nữ kia nương tựa vào mình cả hai cùng nương tựa vào nhau, để cố gắng qua cơn đói khổ này. Đó chính là sự nhân đạo trong con người Tràng. Trong khi nạn đói đang hoành hành, người chết như ngả rạ, thêm một người là thêm một miệng ăn, nhưng Tràng vẫn sẵn sàng cưu mang thị, đưa thị về nhà cùng chung sống.

Bà cụ Tứ mẹ của anh cu Tràng cũng là người có tấm lòng nhân văn, nhân đạo. Bà thương yêu con hết mực. Bà cụ Tứ xuất hiện với dáng người đã già cả lưng còng, mắt kèm nhèm, nhìn từ xa bà thấy trong nhà mình có một người phụ nữ bà tưởng mình trông gà hóa cuốc. Nhưng khi lại gần tới nhà thấy người phụ nữ kia chào mình bằng u, rồi nghe anh cu Tràng giới thiệu "Đây là nhà con" thì bà cụ Tứ không còn nghi ngờ gì nữa.

Bà thoáng chút thương xót cho số phận của mình và con trai, người ta cưới vợ trong lúc ăn nên làm ra, còn mình thì cưới nhau trong lúc nghèo đói, túng quẫn. Nhưng rồi bà lại vui vẻ chấp nhận bà nghĩ rất tích cực "Có gặp hoàn cảnh khốn khó như lúc này thì người ta mới lấy tới con mình, mà con mình mới có vợ". Bà cụ Tứ nhìn mọi chuyện vô cùng thấu đáo tích cực. Bà thấy nhiều niềm vui hơn là nỗi buồn trong việc anh cu Tràng nhặt được vợ trong thời kỳ đói khổ

Chính người mẹ khốn khổ này đã luôn tạo không khí vui vẻ cho gia đình để con trai và con dâu của bà vui vẻ mà cố gắng phấn đấu vượt qua thời kỳ đói khổ này. Người mẹ già khốn khổ ấy luôn miệng động viên con trai con dâu của mình. Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời, chăm chỉ làm ăn biết đâu nhờ trời thương lại cho khấm khá.

Sáng hôm sau, gia đình anh cu Tràng từ khi lấy vợ đã thay đổi hẳn nhà cửa gọn gàng, vườn tược được nhổ sạch cỏ, mọi thứ thật sự là một gia đình dù còn nhiều đơn sơ nghèo khó. Nhưng nó vẫn thể hiện đó là một gia đình, đầm ấm sum vầy. Trong bữa cơm gia đình, hình ảnh nồi cháo cám đã ám ảnh người đọc vô cùng, nhưng trong mâm cơm đạm bạc nghèo khổ ấy ai cũng nói tới tương lai, nói tới chuyện vui. Họ cùng nhau hy vọng vào cuộc sống mới.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm làm nên niềm tin cho những con người lao động nghèo khổ, khốn khó. Nó chính là bản năng sống, khát khao được hạnh phúc của mỗi con người. Nó thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của tác giả Kim Lân khi đồng cảm với người nông dân, nhân vật của mình.

Bài tham khảo Mẫu 2

" Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng, người chết đói đầy đường

Truyện ngắn đã phản ánh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện "Vợ nhặt" là giá trị nhân đạo.

Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn " Vợ nhặt" của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.

Truyện đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên "xanh xám như những bóng ma" nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên "như những đám mây đen" trên nền trời. Mùi gây của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cùng ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường!

Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà "vắng teo đứng rúm ró" trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Của nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng tiếng thở dài". Bà cụ Tứ "mặt bủng beo u ám". Anh cu Tràng "bước mệt mỏi", cái đầu "trọc nhẵn chúi về đằng trước" với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó "ngồi ủ rủ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích". Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái "ngồi vêu ra".

Đặc biệt nhân vật "thị", cái đói đã cướp đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần "tả tơi như tổ đỉa". Thị "gầy sọp hẳn đi", khuôn mặt lưỡi cày "xám xịt", chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chị nghe Tràng nói "muốn ăn gì thì ăn", thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hoáy" của thị tức thì "sáng lên". Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.

Cái xóm ngụ cư càng về chiều "càng xơ xác, heo hút" nhà cửa "úp súp, tối om", những khuôn mặt "hốc hác u tối". Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể "nhặt" được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có "quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau". Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới "khép nép", "cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt". Tối tân hôn, "tiếng khóc tỉ tê" của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thô thiết não nùng.

Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi "dồn dập, vội vã". Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật - Pháp bắt nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Truyện " Vợ nhặt" đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu "tầm phơ tầm phào", Tràng đãi thị 4 bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được  vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: "Chặc, kệ!". Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn "đèo bòng". Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng "phởn phơ khác thường". Hắn "tủm tỉm cười nụ". Hai mắt "sáng lên lấp lánh". Có lúc cái mặt hắn "cứ vênh lên tự đắc với mình"

Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông "hay đáo để". Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị "phát đánh đét" vào lưng với câu mắng yêu: "Khỉ gió". Tràng nghển cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.

Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...". Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: "Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá...".

Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai hoạ, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...". Người đọc cảm thấy ngọn đèn "vàng đục" chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.

Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện " Vợ nhặt". Bà cụ Tứ gọi là "chè khoán... ngon đáo để". Bà tự hào nói với hai con là "xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng "đầm ấm hòa hợp" hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy.

Vị cháo cám "đắng chát" mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,... mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày?

Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: "Chông vợ hài". Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy "có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ". Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh "rạng rỡ hẳn lên". Vợ Tràng trở thành người đàn bà "hiền hậu đúng mực". Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy "êm ái lửng lơ". Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn "vẫn ngỡ ngàng như không phải".

Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy hắn đã "nên người", hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này

Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình "lá cờ đỏ bay phấp phới". Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.

Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao! Cổ kim đông tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi tất cả tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện " Vợ nhặt" mà ta trân trọng.

Bài tham khảo Mẫu 3

"Vợ nhặt" là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn học Việt Nam sau năm 1975. Truyện được in trong tập "Con chó xấu xí" (1962). Truyện "Vợ nhặt" có giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Thông qua tình huống "nhặt vợ" tác giả đã cho ta thấy nhiều điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong nạn đói năm 1945 cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm rất cao ở họ.

Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng trỗi dậy ở họ.

Trước hết tác phẩm bộc lộ niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân nghèo trong nạn đói năm 1945. Qua đó tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói. Bối cảnh chính của truyện " vợ nhặt" diễn ra ở một xóm ngụ cư, ở đó cái đói đang hành hạ mọi người, cái đói thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật. Con đường từ trong xóm chợ vào trong bến thì "khẳng khiu", cái thứ ánh sáng đầu tiên hắt vào truyện là thứ ánh sáng nhập nhạng mù mờ, không ra ánh sáng mà cũng không ra tối hẳn của buổi chiều tà "chạng vạng". Trên con đường và thứ ánh sáng leo lét ấy hiện lên vật vờ ủ rũ những bóng người đói "xanh xám như những bóng ma".

Người sống nằm ngổn ngang khắp lều chợ, ngay cạnh là những "cái thây nằm còng queo bên đường". Trên ngọn cây là hình ảnh bầy quạ "cứ gào lên từng hồi thê thiết", văng vẳng bên tai là tiếng trống thúc thuế dồn dập, những đứa trẻ thì ngồi ở xó đường, không buồn nhúc nhích...một cuộc sống mấp mé bên bờ cái chết với cái không khí "vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người".

Thứ hai, tác phẩm đi sâu khám phá và trân trọng nâng niu khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người, trước hết là Tràng. Khi nhặt được vợ về Tràng không phải không biết, "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng". Nhưng rồi anh ta "tặc lưỡi": "Chậc, kệ!". Sau tiếng đó mọi sự đùa cợt lập tức khép lại nhường chỗ cho sự nghiêm trang và anh ta đã được đền bù: "Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề [...], một cái gì đó mới mẻ, lạ lẫm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng". Cuộc đời cùng khốn đến mức việc mua có hai hào dầu cũng là cái gì đó hoang phí lắm "hai hào đấy, đắt quá", "vợ mới vợ miếc thì cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chẳng nhẽ chưa tối đã súc ngay vào". Hôm nay là một ngày khác hẳn, một sự kiện của đời Tràng, ngày Tràng có vợ và nhà cần phải sáng.

Tiếp đó là ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật người  vợ nhặt. Thị chấp nhận bỏ qua ý thức về danh dự để theo không Tràng. Như vậy hoàn cảnh bi đát một mặt đẩy con người vào chỗ quên cả danh dự để tồn tại, mặt khác nó lại làm bộc lộ lòng ham sống mãnh liệt của những con người ở dưới đáy xã hội như thị. Tất cả mọi người đều có ý thức vun đắp cho cuộc sống mới. Ngẫm nghĩ về nhân vật bà cụ Tứ ta còn thấy hóa ra chính bà lão gần đất xa trời này lại là người nói đến hy vọng, đến ngày mai nhiều hơn tất cả: từ việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con cho kín đáo, truyện "khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà"... "Mẹ chồng nàng dâu thu dọn cửa nhà, sáng hôm sau thị dậy từ sớm quét dọn nhà cửa cho ngăn nắp, gọn gàng" hình như ai nấy đều nghĩ rằng "thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn". Qua tác phẩm ta còn thấy niềm hy vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật được thể hiện qua hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới vấn vương trong tâm trí Tràng.

Giá trị nhân đạo của truyện còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc vào sự đổi đời, vào lòng nhân hậu của con người. Tràng tuy có vẻ bề ngoài xấu xí nhưng cái đẹp tiềm ẩn bên trong của Tràng đó là sự cảm thông, lòng thương người, sự hào phóng chu đáo. Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc, mua một chai dầu và mua cho thị một cái thúng con, đó là hành động rất bình thường nhưng nó thể hiện tình nghĩa và thái độ trách nhiệm của Tràng. Còn về người " vợ nhặt" thì đã có sự biến đổi về tính cách, trước khi về làm vợ Tràng, thị hiện lên với một vẻ chao chát, chỏng lỏn. Trước câu hò của Tràng thị cong cớn nói "có khối cơm trắng mấy giò đấy", lần thứ hai gặp Tràng thị sưng sỉa nói: "Điêu! Người thế mà điêu"...Nhưng người đàn bà ấy sau khi về làm vợ Tràng đã thay đổi, vẻ chao chát chỏng lỏn ban đầu biến mất, thay vào đó là sự hiền hậu đúng mực, sự ý tứ trong cách cư xử: Thị đi theo Tràng với dáng điệu đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tang, nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, khi về đến nhà thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường.

Sáng hôm sau dậy từ sớm quét dọn nhà cửa.... Còn về bà cụ Tứ, bà thương con hết mực, cảm thông cho tình cảnh của nàng dâu mới "có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ", bà ân cần trong cách hành động với con dâu "con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân". Bà luôn trăn trở về nghĩa vụ làm mẹ của mình "chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi...còn mình thì", trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà luôn cố tạo niềm vui cho gia đình giữa cảnh sống thê thảm. Người mẹ ấy sống vì con và tìm thấy ý nghĩa của đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con.

Nổi bật nhất trong giá trị nhân đạo của tác phẩm đó là niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo của tác phẩm có nét mới mẻ hơn so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học hiện thực trước cách mạng.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay

2K7 tham gia ngay group để nhận thông tin thi cử, tài liệu miễn phí, trao đổi học tập nhé!