Văn mẫu lớp 11 - Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức Bài 6: Nguyễn Du - những điều trông thấy mà đau đớn lòn..

Phân tích Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí”


1. Mở bài - Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: + Nguyễn Du, một đại thi hào, một nhà văn hóa, nhà nhân đạo lỗi lạc với tâm hồn nhạy cảm, tấm lòng sâu sắc

Tổng hợp đề thi học kì 2 lớp 11 tất cả các môn - Kết nối tri thức

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Du, một đại thi hào, một nhà văn hóa, nhà nhân đạo lỗi lạc với tâm hồn nhạy cảm, tấm lòng sâu sắc
+ "Độc tiểu thanh kí" là nỗi đồng cảm, xót thương cho một kiếp người tài hoa bạc mệnh.

2. Thân bài

- Khái quát về hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
+ "Độc Tiểu Thanh kí" được sáng tác trong khoảng trước hoặc sau khi tác giả đi sứ Trung Quốc.
+ Bài thơ là lời xót thương cho Tiểu Thanh, một người con gái đẹp nhưng bạc mệnh.
+ Nguyễn Du thấu hiểu, cảm thông với tất cả những vấn đề ấy để tri âm với nàng qua bài thơ của mình.

- Phân tích từng câu thơ để làm rõ tiếng khóc đồng cảm của Nguyễn Du dành cho nàng Tiểu Thanh

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

+ Lời thơ của Nguyễn Du ẩn chứa nỗi tiếc nuối, sự xót xa trước vẻ lụi tàn của cái đẹp. Vật đổi sao dời, biến thiên dâu bể, con người tài sắc một thời đã hóa cát bụi từ bao giờ.

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

+ Son phấn tượng trưng cho nhan sắc, văn chương hình tượng của tâm hồn, tài năng.
→ Nhan sắc thì bị vùi dập, văn chương bị thiêu hủy, cả hai hình ảnh đã nói lên cuộc đời đầy oan khốc, phũ phàng của nàng Tiểu Thanh, một số phận trớ trêu, ngang trái, bi kịch.
→ Nhà thơ bày tỏ niềm tiếc thương, xót đau vô hạn cho cái tài, cái đẹp của con người, để rồi cùng thương, cùng đau, lại cùng oán trách, bất bình trước những kẻ đã chà đạp lên cái tài, cái đẹp ấy

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư”

+ "Hận" để chỉ nỗi đau tột cùng không thể sẻ chia, không thể giải tỏa khi những giá trị, những phẩm giá con người bị quên lãng.
+ "Oan" là sự tự ý thức của con người khi bị chà đạp, bị kết tội một cách vô lý.
→ Ở đây, Nguyễn Du không chỉ nêu ra nỗi hận, nỗi oan của con người mà còn tìm cách lý giải nguyên nhân của nỗi oan ấy. Xã hội bất công tàn ác chà đạp con người.

“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

+ Ba trăm năm sau khi Tiểu Thanh mất, Nguyễn Du đã đến đọc thơ và tri âm cùng nàng. Câu thơ là lời để ngỏ nỗi khắc khoải của nhà thơ, ai sẽ là người khóc cho những nỗi đau mà kiếp này ông đã từng trải.
3. Kết bài

Khẳng định lại vấn đề.

Bài tham khảo Mẫu 1

Nguyễn Du, một đại thi hào, một nhà văn hóa, nhà nhân đạo lỗi lạc với tâm hồn nhạy cảm, tấm lòng sâu sắc. Sống một cuộc đời bi kịch và đau thương, Nguyễn Du có một sự đồng cảm, lòng trắc ẩn với những mảnh đời bất hạnh. Chính vì thế, trong lòng ông luôn băn khoăn, trăn trở về sự đồng cảm. Cả đời vì nghệ thuật, đến khi mất đi, nỗi day dứt nhất trong lòng nhà thơ là liệu rằng, hậu thế có ai là tri âm, tri kỉ. "Độc tiểu thanh kí" là tiếng khóc, là nỗi lòng của một nhân tài kiệt xuất nhưng khổ đau, đơn độc. Không chỉ khóc cho mình, đó còn là tiếng khóc cho những người tài hoa mà bạc mệnh, bạc phận như nàng Tiểu Thanh trong tác phẩm.

Xuất thân danh gia vọng tộc, nhà có truyền thống làm quan đã làm nên một hồn thơ Nguyễn Du có sự trí tuệ, học thức. Tuy nhiên, cuộc đời gian nan, phiêu bạt, đã có những lúc phải sống chui lủi, trốn chạy, tiếng thơ của ông có sự từng trải, xót xa. "Độc Tiểu Thanh kí" được sáng tác trong khoảng trước hoặc sau khi tác giả đi sứ Trung Quốc. Bài thơ là lời xót thương cho Tiểu Thanh, một người con gái đẹp nhưng bạc mệnh. Có sắc, có tài thơ ca, 16 tuổi nàng đã bị bắt đi làm vợ lẽ cho một nhà giàu, bị vợ cả đánh ghen, bắt lên núi sống một mình. Chẳng bao lâu, nàng mang tâm bệnh mà qua đời khi mới chỉ 18 tuổi. Khi còn sống, nàng viết thơ bày tỏ lời gan ruột của mình. Sau khi nàng chết, người vợ cả đốt hết những bài thơ ấy, chỉ còn sót lại một số lượng nhỏ. Nguyễn Du thấu hiểu, cảm thông với tất cả những vấn đề ấy để tri âm với nàng qua bài thơ của mình.

Mở đầu bài thơ là những dòng xúc cảm cuộn trào của tác giả khi lần đầu gặp gỡ một tâm hồn đồng điệu:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

Cảnh Tây Hồ vốn đẹp đẽ, thơ mộng nay đã "hóa gò hoang", một sự biến đổi khốc liệt, kinh hoàng của cảnh. Từ một vườn hoa Tây Hồ rực rỡ, mĩ lệ trở thành gò hoang trơ trụi, hoang tàn. Cảnh sắc gợi nhắc đến số phận con người, số phận bất hạnh, nghiệt ngã của nàng Tiểu Thanh. Lời thơ của Nguyễn Du ẩn chứa nỗi tiếc nuối, sự xót xa trước vẻ lụi tàn của cái đẹp. Vật đổi sao dời, biến thiên dâu bể, con người tài sắc một thời đã hóa cát bụi từ bao giờ. Chỉ còn lại một tập sách để "viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ", nhà thơ thấu hiểu được sự bất hạnh của một kiếp người tài hoa. Bản dịch thơ có thêm từ "thổn thức" để làm nổi bật được nỗi lòng xót xa. Trước một cuộc đời như Tiểu Thanh, ta còn biết làm gì ngoài việc đọc thơ nàng để hiểu được những kí thác, tâm sự. Câu thơ "độc điếu song tiền nhất chỉ thư" ngắn gọn mà hàm súc, chứa đựng bao ý tình. Tập sách mỏng manh như chính sự mỏng manh của đời người, là cầu nối tri âm giữa người xưa và thực tại. Phải chăng, đó là sự tri âm của những tâm hồn đồng điệu, sự giao cảm hài hòa giữa người đọc thơ và người viết thơ, người còn sống và người đã khuất.

Tiếng khóc của Nguyễn Du được thể hiện qua hình ảnh "son phấn" và "văn chương".

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

(Son phấn có phần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

Son phấn tượng trưng cho nhan sắc, văn chương hình tượng của tâm hồn, tài năng. Nhan sắc thì bị vùi dập, văn chương bị thiêu hủy, cả hai hình ảnh đã nói lên cuộc đời đầy oan khốc, phũ phàng của nàng Tiểu Thanh, một số phận trớ trêu, ngang trái, bi kịch. Nhà thơ bày tỏ niềm tiếc thương, xót đau vô hạn cho cái tài, cái đẹp của con người, để rồi cùng thương, cùng đau, lại cùng oán trách, bất bình trước những kẻ đã chà đạp lên cái tài, cái đẹp ấy. Tuy vậy, người ta nhận ra được sự tồn tại vĩnh hằng của cái đẹp, "Son phấn" nếu có thần vẫn phải xót xa, "văn chương" vô tri để rồi cũng biết cất lên tiếng kêu ai oán. Nàng Tiểu Thanh không còn nữa, nhưng cái tài, cái đẹp vẫn bất tử. Tài hoa, nhan sắc có sức sống tự thân của nó, trường tồn vĩnh hằng. Qua câu thơ, Nguyễn Du đã cất lên tiếng thương đồng cảm, tiếng nói tri âm sâu sắc với số phận khổ đau oan khuất của nàng Tiểu Thanh.

Nỗi đau day dứt của nàng Tiểu Thanh được Nguyễn Du khắc họa trong hai câu thơ luận:

“Cổ kim vấn sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”

(Nỗi hận kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)

Hai câu thơ đầu ám ảnh và gây băn khoăn cho người đọc, có nhiều phiên bản dịch khác nhau. Đào Duy Anh viết:

(Nỗi hận cổ kim khó hỏi trời
Oan lạ của người phong vận ta cũng tự thấy có mình)

Hay Vũ Tam Tập dịch ý:

(Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được
Ta tự coi là kẻ cùng một hội với con người phong vận mắc nỗi oan lạ lùng)

Các bản dịch về cơ bản đều gặp gỡ nhau ở chung một điểm, bàn về hai chữ "hận" và "oan". Nỗi đau, nỗi uất hận của con người, đặc biệt là những bậc kì tài tuyệt sắc xưa nay không bao giờ chấm dứt. Chữ "hận" và "oan" là những thứ thường được dùng trong văn chương trung đại, các cổ nhân xưa thường dùng để chỉ nỗi buồn thời thế, nhân thế. "Hận" để chỉ nỗi đau tột cùng không thể sẻ chia, không thể giải tỏa khi những giá trị, những phẩm giá con người bị quên lãng. "Oan" là sự tự ý thức của con người khi bị chà đạp, bị kết tội một cách vô lý. Người "tài tình" thường mắc vào nỗi hận, nỗi oan "Tài mệnh tương đố", "hồng nhan đa truân". Nỗi hận của nàng Tiểu Thanh trong cảm nhận của Nguyễn Du đã trở thành nỗi hận muôn đời. Ở đây, Nguyễn Du không chỉ nêu ra nỗi hận, nỗi oan của con người mà còn tìm cách lý giải nguyên nhân của nỗi oan ấy. Xã hội bất công tàn ác chà đạp con người. Nguyễn Du tự coi mình là người cùng chịu nỗi oan với Tiểu Thanh, cho dù giữa ông và nàng về thời gian, không gian đều không cùng một thời điểm. Nguyễn Du tự nhận mình là người "cùng hội cùng thuyền" với nàng Tiểu Thanh, thêm một lần nữa, sự đồng cảm ấy lại trở nên rõ nét.

Tiếng khóc ai oán của Nguyễn Du kéo dài đến hai câu kết

"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khóc Tố Như?"

Ba trăm năm sau khi Tiểu Thanh mất, Nguyễn Du đã đến đọc thơ và tri âm cùng nàng. Còn Nguyễn Du, ba trăm năm sau này, ai sẽ khóc cho ông đây? Nước mắt lặn vào trong lòng bởi đó là tiếng khóc tri âm, câu thơ cuối cất lên đau đáu, khắc khoải, vừa thể hiện niềm khao khát, kiếm tìm người đồng cảm, vừa là nỗi cô đơn bất lực của Nguyễn Du trước cuộc đời đen bạc. Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Du không tìm được tri âm ở hiện tại nên đành kí thác, hi vọng tìm được tri kỉ ở thế hệ sau. Khát vọng tri âm là khát vọng muôn đời của con người, trong sự nghiệp thơ ca, Nguyễn Du cũng nhiều lần nhắc đến khát khao ấy:

“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai”

Quả thực, trên đời này, khó nhất chính là sự gặp gỡ, mà gặp gỡ để thành tri kỉ lại càng khó hơn. Câu thơ là lời để ngỏ nỗi khắc khoải của nhà thơ, ai sẽ là người khóc cho những nỗi đau mà kiếp này ông đã từng trải. Và thật may sao, trong lễ kỉ niệm 200 năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du, Tố Hữu đã viết:

“Tiếng thơ lay động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.”

Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt phổ biến cùng giọng thơ đầy ai oán, khắc khoải, tiếng khóc Tố Như, tiếng khóc của một đại thi hào xuất chúng nhưng bất hạnh, khổ cực cất lên đầy ai oán. Khóc cho mình, khóc cho người, khóc cho những số phận tài hoa nhưng bạc mệnh, bị cuộc đời chà đạp, vùi dập. Người đọc như cảm nhận được tiếng lòng của nhà thơ, để rồi cùng thấu hiểu, tri âm cho một kiếp người nghệ sĩ.

Bài tham khảo Mẫu 2

Đau đớn, xót thương cho mọi số kiếp khổ đau trong nhân gian là tình cảm lớn, xuyên suốt hầu hết sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du. Từ tập đại thành Truyện Kiều đến Văn tế thập loại chúng sinh, Phản Chiêu hồn, Sở kiến hành, Long Thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh Kí..., ở văn bản nào, chúng ta cũng được chứng kiến nỗi niềm đau đáu khôn nguôi của người nghệ sĩ có con mắt trông thấy sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời (Mộng Liên Đường chủ nhân). Lo đời, thương người, nên suốt đời thơ Nguyễn du là tiếng khóc nhân sinh đau đớn:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Có thể thấy ở hầu hết các sáng tác, Nguyễn Du luôn dành tiếng khóc lớn cho những người phụ nữ khốn khổ, những cô gái tài hoa bạc mệnh. Họ là Thuý Kiều, Đạm Tiên (Truyện Kiều), là người con gái đánh đàn ở đất Long Thành (Long Thành cầm giả ca), là người mẹ nghèo khổ của bầy con nheo nhóc (Sở kiến hành)… Với Độc Tiểu Thanh Kí, Nguyễn Du lại thêm một lần nữa nức nở vì người con gái mang tên Tiểu Thanh. Tiểu Thanh là cô gái sống ở đầu đời Minh (Trung Quốc), tên thật là Phùng Huyền Huyền. Nàng nổi tiếng tài hoa, xinh đẹp nhưng sớm phải đem thân đi làm vợ lẽ họ Phùng. Cuộc đời nàng mang nhiều bi kịch. Tiểu Thanh luôn bị vợ cả của chồng ghen tị. Nàng bị bắt dọn ra núi Cô Sơn để ở. Tiểu Thanh mất khi mới mười tám tuổi. Mọi tư trang, thư tịch của nàng bị người vợ cả đốt hết để hả lòng ghen giận. Nhan đề Độc Tiểu Thanh Kí có thể hiểu là đọc những ghi chép về Tiểu Thanh hoặc đọc tiểu truyện về Tiểu Thanh sau đó ghi lại cảm xúc. Như vậy, có thể hiểu các ghi chép hay tiểu truyện ấy chính là nguyên cớ khiến nhà thơ của chúng ta đau đớn cất lên tiếng thơ ai động đất trời (Tố Hữu).

Đọc bài thơ, bất cứ ai cũng nhận thấy tiếng khóc Nguyễn Du trước hết hướng tới số phận bi kịch của nàng Tiểu Thanh với nỗi niềm cảm thương dào dạt:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”

Tây Hồ vốn là một cảnh đẹp thuộc tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc, trước đây vốn là nơi huy hoàng, thịnh vượng (hiểu theo cách giải nghĩa của Từ hải từ nguyên về hai chữ hoa uyển). Câu thơ đầu thể hiện triết lí, sự nhìn nhận khái quát về thời cuộc: sự suy tàn, đổ nát của thời đại (xưa là vườn hoa đẹp, nay thành gò hoang trơ trụi, tiêu điều, tang thương). Sự đổi thay của thiên nhiên, cảnh vật được diễn đạt triệt để thông qua từ tẫn (nghĩa là hết, cùng), nó nhấn mạnh quy luật biến thiên dâu bể. Viết câu thơ này, chắc chắn Nguyễn Du không chỉ thổn thức trước vẻ đẹp của quá khứ bị tiêu tan, tàn lụi trước năm tháng thời gian. Dường như nhà thơ còn ngầm ý muốn đặt bi kịch, số phận của người con gái trong mối quan hệ gắn kết với sự tàn lụi của thời đại. Điều này được triển khai cụ thể ở các dòng tiếp theo:

Từ nhất chỉ thư (mảnh giấy). Mảnh giấy là vật chứng lưu kí bao tâm sự của một con người. “Mảnh giấy” khác so với “quyển”. Mảnh giấy tàn trước cửa sổ ám chỉ số phận chóng tàn, mỏng manh, khái quát về số phận, giá trị tinh thần bị huỷ hoại, quên lãng, vùi dập, đương nhiên, trong đó có Tiểu Thanh. Người nghệ sĩ đa mang không khóc thương cho những cái trọn vẹn, đầy đặn, mà lại xúc động trước cái mong manh, dở dang gắn liền với số phận của con người bạc mệnh. Điều đặc biệt là không có ai khóc cùng Nguyễn Du. Chữ độc đứng đầu dòng thơ nhấn mạnh tâm thế của tác giả - đó là tâm thế xót thương trong nỗi cô đơn. Chỉ riêng một mình nhà thơ thấm thía về cuộc đời, thân phận mong manh của con người. Suy cho rộng, Tiểu Thanh chính là cái cớ để Nguyễn Du thể hiện triểt lí của mình về “tài mệnh tương đố”. Nói như vậy cũng có nghĩa Nguyễn Du không chỉ khóc thương riêng cho người con gái họ Phùng mà còn khóc cho biết bao thân phận phụ nữ khác:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

                                                (Truyện Kiều)

Nếu như dòng thơ đầu khái quát về sự hoang tàn, đổ nát của thời đại thì dòng thơ thứ hai nói lên thân phận của con người trong thời đại ấy. Đó chính là mỗi tương liên giữa số phận, cuộc đời người con gái này với cuộc biến thiên dâu bể. Từ qui luật mang tầm khái quát, lớn lao, Nguyễn Du đã đi vào trường hợp cụ thể là cuộc đời nàng:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.”

Tiếng khóc của Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh hướng tới hai giá trị cụ thể là chi phấn (son phấn) và văn chương biểu trưng cho vẻ đẹp hình sắc và cái đẹp tâm hồn. Điều này không khó lí giải bởi ai cũng biết Tiểu Thanh là người con gái có nhan sắc và hết sức tài hoa. Son phấn có thần nên vẫn phải ôm hận kể cả sau khi chết, văn chương không có thân mệnh cụ thể nhưng phải chịu sự hạnh hạ, phải mang luỵ. Đó là cách chúng ta diễn giải để hiểu rõ hơn về hai dòng thơ này. Tiến sĩ Hán Nôm Hà Minh đã khái quát như sau: Son phấn là thân xác, nó phải chịu nỗi đau tinh thần sau khi chết, văn chương là tinh thần nhưng lại phải chịu nỗi đau thể xác. Như vậy, cái đẹp nói chung đều phải chịu sự chà đẹp. Nỗi đau thể xác và bi kịch tinh thần được đồng nhất trong số phận oan nghiệt của một cuộc đời. Lời thơ đong đầy nỗi niềm tiếc thương, xót xa, đau đớn. Nhan sắc ấy, tài năng ấy có lẽ đâu lại phải chịu đựng sự chà đạp phũ phàng nhường vậy? Phép đối học (chi phấn hữu thần – văn chương vô mệnh, liên tử hậu - lụy phần dư) càng khiến nỗi đau trở nên dai dẳng, mang ý nghĩa nhân loại. Nguyễn Du đã khóc cho bao người con gái như Tiểu Thanh, đã nhỏ lệ cho bao nhiêu số phận cay đắng như nàng? Thật khó để kể cho hết. Nhưng có thể hiểu rằng, bất kì sự lụi tàn, đau đớn của một nhan sắc, một tài hoa - nghệ sĩ nào, nước mắt nhà thơ cũng tuôn rơi đầy xót thương và hết sức chân thành. Tiếng khóc Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh cũng chính là tiếng khóc mà nhà thơ dành cho những số kiếp “tài hoa bạc mệnh” như nàng. Sức khái quát của lời thơ, tình yêu thương mênh mông Nguyễn Du dành cho những số kiếp ấy không chỉ dừng lại ở đó:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kỳ oan ngã tự cư.”

Cổ kim hận sự là nỗi hờn về sự bất công của số phận. Nhà thơ nhận thức về quy luật tài hoa bạc mệnh, tài tử đa cùng, người có tài hoa, trí tuệ thì số phận long đong. Đó là nỗi bất công ngự trị từ xưa đến nay, là bi kịch đã được khái quát hoá, được đồng nhất. Mặt khác, chúng ta có thể nhận thấy từ cuộc đòi của một người con gái, nhà thơ muốn hỏi cho rõ nguyên nhân gây nên bi kịch nói chung của thời đại chứ không riêng của dân tộc, thân phận cụ thể nào. Đến đây, có thể cảm nhận rất rõ ràng: tiếng khóc của Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh Kí không chỉ hướng tới cuộc đời, số phận cụ thể là nàng Tiểu Thanh mà còn hướng tới tất cả những người tài hoa, phong nhã, không phân biệt nam hay nữ (những kẻ phong vận). Tiếng khóc ấy không chỉ chan chứa yêu thương mà còn rất chân thành, xúc động bởi lẽ tác giả đã tự đặt mình vào thế giới của những kẻ phong vận kia. Điều đó chứng tỏ người nghệ sĩ của chúng ta ý thức rất rõ về bản thân mình. Ông nhận mình cũng là người cùng hồi cùng thuyền với Tiểu Thanh: Tráng niên ngã diệc, vi tài tử (Thời trẻ ta cũng có tài). Không phải Nguyễn Du tự ngạo nhưng quả thật đúng như vậy. Số phận của Nguyễn Du, Tiểu Thanh đều bất hạnh như nhau. Tự nhận là người cùng hội cùng thuyền cũng có nghĩa là nhà thơ thừa nhận sự tri âm, đồng điệu giữa những con người tài hoa bạc mệnh. Vậy nên tiếng khóc của Nguyễn Du không phải là tiếng khóc của đấng tu mi nam tử đoái thương cho số phận đàn bà mà là tiếng khóc của người trong cuộc, của những người cùng một lứa bên trời lận đận (Long Thành cầm giả ca). Chưa ai trả lời cho Nguyễn Du được nguyên nhan của bi kịch đó để rồi khóc cho người thiên cổ, nhà thơ đoái thương cho chính bản thân mình:

“Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Từ hiện tại, Nguyễn Du khóc thương cho quá khứ, cho người trong quá khứ. Và bất chợt nhà thơ tự hỏi ba trăm năm sau sẽ ai khóc thương mình. Thương người, ngẫm bi kịch của người, khóc cho người rồi thương chính bản thân mình, điều đó cho thấy nhà thơ đã tự đặt mình vào số phận chung của những tấn bi kịch. Tiểu Thanh mệnh bạch nhưng ba trăm năm sau cũng có người cùng hội cùng thuyền là Nguyễn Du thương xót. Nỗi đau của nàng đã được xoa dịu một chút nơi chín suối. Nhưng liệu răng điều đó có lặp lại với ông? Ba trăm năm chỉ là con số ước lệ. Tri âm, tri kỷ đâu cần đến ba trăm năm mới xuất hiện? Đọc thơ văn Nguyễn Du, cảm nhận sâu sắc tấm lòng vị tha, đa mang của nhà thơ trước cuộc đời, trước con người, bất cứ ai chẳng đồng điệu, chẳng muốn tri âm với ông. Câu hỏi của Nguyễn Du hướng tới tương lai chứ không đặt câu hỏi cho hiện tại, có thể vì ông không tìm thấy sự đồng cảm trong hiện tại. Đó là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời cũng là một triết lí về thuyết tài mệnh tương đố. Ông thương cho người xưa, thương cho chính mình và thương cho cả người sau phải khóc mình. Sẽ còn có những trái tim đa cảm như Nguyễn Du, sẽ còn những giọt nước mắt khóc cho những số phận cay đắng của người nghệ sĩ tài hoa mà mệnh bạc.

"Độc Tiểu Thanh Kí" là bài thơ xúc động. Người đọc được lắng nghe một tiếng khóc đầy đớn đau, nhức nhối, được chứng kiến một tấm lòng nhân đạo hết sức cao cả của người nghệ sĩ tài hoa đa truân. Nguyễn Du đâu chỉ khóc cho Tiểu Thanh, ông còn khóc cho bao số kiếp hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa cùng như nàng, khóc cho quá khứ, hiện tại, tương lai, và khóc cho chính bản thân mình. Trái tim người nghệ sĩ đa cảm ấy cả cuộc đời chỉ biết thác oán thay cho những số phận ai oán gào thét mà không có ai đáp lại. Xót xa thay!

Bài tham khảo Mẫu 3

Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820, là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Ông là nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tuy xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhưng Nguyễn Du trải qua một cuộc đời đầy thăng trầm, sóng gió trong một thời kì xã hội Việt Nam có nhiều biến động. Có lẽ vì vậy mà ông có cái nhìn và suy ngẫm sâu sắc về số phận con người. Nguyễn Du đồng cảm và xót thương cho tất cả những mảnh đời khổ mệnh, những con người tài sắc mà bất hạnh. Ông không chỉ khóc thương cho nàng Kiều, mà còn khóc thương, đồng cảm sâu sắc cho Tiểu Thanh – người con gái hồng nhan bạc mệnh qua bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” được viết bằng chữ Hán in trong “Thanh Hiên thi tập”.

“Độc Tiểu Thanh kí” có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh kí” của nàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du hơn 200 năm trước ở đời Minh, Trung Quốc. Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng 16 tuổi phải đi làm lẽ cho một nhà quyền quý. Lại bị vợ cả sinh lòng ghen tuông, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Vì cô đơn, buồn rầu, nàng sinh bệnh mà chết khi chỉ mới tuổi 18. Sinh thời, nàng để lại hai tập thơ nhưng đều bị vợ cả đem đốt, chỉ còn lại một số bài thơ trong tập “phần dư”. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh lại để lại cho Nguyễn Du – con người của hơn hai thế kỉ sau những nỗi niềm và tình cảm đặc biệt, sâu sắc.

Nếu Thuý Kiều đến với Đạm Tiên qua nắm đất sè sè bên đường thì Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh qua một “mảnh giấy tàn”:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

Bài thơ mở đầu với một bức tranh đối lập đầy trớ trêu giữa quá khứ và hiện tại, giữa cảnh đẹp rực sắc và sự hoang tàn. Từ “tẫn” đã gợi ra một sự thay đổi khốc liệt đến tận cùng, như càng nhân đôi lên sự thương cảm, ngậm ngùi cho nơi gò hoang ấy. Từ vườn hoa đến gò hoang là một sự thay đổi lớn khiến Nguyễn Du đau lòng nhận ra cái đẹp bị hủy diệt bởi sự vô tình của tạo hoá. Sự đổi thay sớm đã trở thành nguồn cảm hứng rất lớn trong văn học trung đại. Rất nhiều người bâng khuâng về sự thay đổi ấy, nhưng ở Nguyễn Du, nó không chỉ là đổi thay của cảnh mà còn là sự đổi thay của cuộc đời: bãi bể đã hóa nương dâu.

Đằng sau câu thơ, ta có thể nghe được tiếng thở dài, xót xa, tiếc nuối của tác giả trước một cảnh đời. Rồi từ những thay đổi của cảnh, tác giả đã hình dung lên những thay đổi của đời người từ xưa đến nay. Nguyễn Du cho ta thấy cái phận người xưa ấy – nàng Tiểu Thanh nổi tiếng tài sắc mà nay chỉ còn lại một tập thơ bị người đốt dở. Cái sót lại của cả một đời người xinh đẹp và tài hoa, cái nơi gửi gắm những nỗi niềm của Tiểu Thanh vùi sâu trong biển lửa, chỉ còn lại cái gọi là “phần dư”. Rồi cái còn lại ấy, giữa một không gian điêu tàn, con người thi sĩ của 200 năm sau hiện lên với dáng vẻ cô ơn, “độc điếu”, ngồi bên song cửa dở từng trang “dư cảo” lại khiến cho một tâm hồn phải ngậm ngùi, thương cảm. Ý thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng, thành kính của nhà thơ với di cảo của Tiểu Thanh, đồng thời qua từ “điếu” nói lên sự đồng cảm sâu sắc trước số phận của nàng. Không phải “thổn thức” mà là giọt nước mắt lặng lẽ thấm vào trong, là giọt nước mắt xót xa cho một hồng nhan bạc mệnh, cho một “mảnh giấy tàn”, cho một di cảo của nàng cũng tựa như di hận:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.”

Nguyễn Du nói đến Tiểu Thanh bằng những hình ảnh đối mang tính ước lệ, tượng trưng quen thuộc. Hai vật thể vô tri ấy đã được nhà thơ nhân cách hoá để trở thành có “thần”, có “hồn”. “Son phấn” – là nhan sắc, là phận hồng nhan nói chung và Tiểu Thanh nói riêng. Còn “văn chương” – là tài trí, là Tiểu Thanh, là những kẻ có tài năng trong xã hội lúc bấy giờ. Tất cả đề bị huỷ hoại, tàn phá khi mà “son phấn” ấy bị chôn dưới ba tất đất, “văn chương” kia thiêu rụi giữa ngọn lửa tàn. Tạo hóa thật trêu người khi chính tài sắc là nguyên nhân cho mọi tai họa giáng xuống cuộc đời nàng. Bởi vậy Nguyễn Du từng viết:

“Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần.”

Giọt nước mắt xót thương của Nguyễn Du bắt nguồn từ sự ngưỡng mộ tài sắc của Tiểu Thanh. Có hiểu rằng xã hội phong kiến vốn phủ nhận tài hoa, trí tuệ của người phụ nữ thì mới thấy hết chiều sâu nhân đạo trong tiếng khóc của Nguyễn Du. Chính sự đồng cảm ấy là sợi dây kết nối Nguyễn Du với Tiểu Thanh và những tâm hồn đồng điệu, đồng mệnh khác, cái tiếng khóc cho những kẻ: “Nghìn thu bạc mệnh, cả đời tài hoa”.

Đằng sau nỗi cô đơn và tiếng khóc ấy, ta thấy được một lòng đau đang tìm đến một lòng đau. Từ khóc người, thương người, Nguyễn Du trở về khóc thương cho chính thân phận mình – một kẻ cũng tài hoa khổ mệnh, bị ông trời đầy ải, phải chịu số phận nghiệt ngã. Nguyễn Du cất lên tiếng khóc cho nỗi oan “thiên nan vấn”, tiếng khắc khoải, uất ức và bất lực trước số phận chung, nỗi oan nghiệt chẳng thể đổi dời:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư.”

Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du khái quát thành cái nhìn về những con người tài hoa trong xã hội phong kiến bấy giờ. Nỗi oan của Tiểu Thanh cũng là nỗi oan, là kết cục chung muôn đời của những người tài sắc. Nỗi hận ấy lại chẳng thể giải bày, chẳng thể giải đáp khi mà chính trời cũng chẳng thể cho họ một câu trả lời. Chính bằng sự trải nghiệm của bản thân, hay cũng là một người “khách” cùng mang cái “phong vận” ấy mà Nguyễn Du thấu hiểu nỗi đau của Tiểu Thanh, nỗi uất ức, bế tắc đến cùng cực, để rồi tự thương cho chính bản thân mình:

“Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Gần ba thế kỷ trôi qua sau cái chết của nàng Tiểu Thanh, nàng đã tìm thấy sự đồng điệu, đồng cảm, thương xót nơi Nguyễn Du. Và giờ, Nguyễn Du lại tự hỏi, đến ba trăm năm nữa lại trôi qua, liệu rằng có ai sẽ thương xót cho Nguyễn Du? Thương xót cho một tâm hồn cô đơn, lạc lõng? Nhà thơ không hỏi quá khứ hay hiện tại mà hướng về tương lai, và chính điều này gợi cho người đọc về cuộc sống cô đơn hiện tại của tác giả khi chẳng thể tìm thấy sự đồng cảm, chẳng tìm tìm được một người tri kỉ để giãi bày. Nguyễn Du hướng tới tương lai, mong cầu được sự thấu hiểu nơi hậu thế, mong cầu một tâm hồn nào đó sẽ “khấp” cho ông cũng như là cho những con người bạc mệnh. Từ “khấp” là một giọt nước mắt có chiều sâu, một nỗi đau chảy ngược vào trong, từ đó thấy được sự khao khát tìm được một tri kỉ thật sự thấu hiểu và sẻ chia nỗi cô đơn nơi tâm hồn Nguyễn Du.

Nỗi trăn trở, day dứt là thế, nhưng Nguyễn Du có lẽ đã may mắn khi chẳng cần chờ đến 300 năm sau, chỉ đến năm 1965, nhân ngày kỉ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu đã thay mặt cho hậu thế khẳng định trước vong linh đại thi hào dân tộc:

“Tiếng thơ ai động đất trời,

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.

Hỡi người xưa của ta nay,

Khúc vui xin lại so dây cùng người.”

“Độc Tiểu Thanh kí” đã vận dụng thành công kết cấu thơ Đường luật với ngôn từ hàm súc, tinh tế, hình ảnh thơ sâu sắc, giàu ý nghĩa. Kết hợp với sự phá cách khuôn mẫu của thơ Đường luật, bài thơ là tiếng khóc lớn trải dài theo không gian và thời gian. Nguyễn Du xót xa, thương cảm cho Tiểu Thanh cũng là khóc thương cho chính bản thân mình. Đây là điểm mới mẻ trong thơ của Nguyễn Du khi trỗi dậy cái ý thức cá nhân. Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề về quyền sống của người nghệ sĩ và điều cần tôn vinh, trân trọng những con người làm nên giá trị văn hoá tinh thần. Từ đó cho ta thấy một tâm hồn nhân đạo và tình thương người, thương đời cao thượng nơi Nguyễn Du.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay

2K7 tham gia ngay group để nhận thông tin thi cử, tài liệu miễn phí, trao đổi học tập nhé!