Văn mẫu lớp 11 - Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức Bài 2: Cấu tứ và hình ảnh trong thơ trữ tình - Văn mẫu ..

Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang


I. Mở bài - Giới thiệu vài nét về nhà thơ Huy Cận, bài thơ Tràng giang - Nêu vấn đề cần nghị luận: Bức tranh thiên nhiên mang nét đẹp đượm buồn được thể hiện trong bài thơ.

Tổng hợp đề thi học kì 2 lớp 11 tất cả các môn - Kết nối tri thức

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về nhà thơ Huy Cận, bài thơ Tràng giang

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Bức tranh thiên nhiên mang nét đẹp đượm buồn được thể hiện trong bài thơ.

II. Thân bài

a) Bức tranh sông nước mênh mông, rộng lớn rợn ngợp nơi bến đò Chèm: "Sóng gợn tràng giang... mấy dòng"

"Sóng gợn... điệp điệp": Gợi tả những con sóng gợn nhẹ trên dòng sông mênh mông gợi bao nỗi buồn triền miên

- Từ láy "điệp điệp": Cảm giác tuần hoàn, lặp đi lặp lại, quanh quẩn của nỗi buồn trong tâm hồn tác giả

- Hình ảnh nổi bật:

+ Con thuyền trôi giữa dòng tràng giang mang dấu hiệu của sự sống, tô điểm cho bức tranh sông nước, tạo sinh khí

+ "Con thuyền... song song": Thuyền và nước mang tính ước lệ tượng trưng và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên "song song" gợi tả sự chia ly, nỗi "sầu trăm ngả"

+ Phép tiểu đối "thuyền về nước lại": Thổi vào khung cảnh một khối u sầu, một dự cảm và nỗi buồn thương sâu sắc

+ "Củi một cành khô... mấy dòng": Hình ảnh ẩn dụ cho biết bao kiếp người nhỏ bé, cô đơn trôi dạt trên dòng sông cuộc đời rộng lớn.

b) Khung cảnh hoang vắng trên sông: "Lơ thơ cồn nhỏ... bãi vàng"

- "Lơ thơ... đìu hiu": Sự kết hợp các từ láy "lơ thơ, đìu hiu" trong cùng một câu thơ + biện pháp tu từ nhân hóa

Nhấn mạnh thêm nỗi buồn, cả một khoảng không rộng lớn chỉ còn vài cồn cát thưa thớt, vài ngọn gió hắt hiu khiến cho nỗi buồn càng thêm thấm thía.

- "Đâu tiếng làng xa... chợ chiều": Từ "đâu" được đặt ở đầu câu thơ như sự lắng nghe của Huy Cận giữa không gian cô quạnh hoặc có thể hiểu đó là một câu hỏi bâng khuâng với trời đất,...

Khung cảnh chợ chiều đã tàn ở làng quê nghèo miền Bắc những năm trước Cách mạng càng khiến lòng người thêm buồn xơ xác

- "Nắng xuống trời lên, sâu chót vót": Phép tiểu đối "nắng xuống, trời lên"

+ Sự kết hợp từ ngữ đầy sáng tạo "sâu chót vót" làm cho khung cảnh càng trở nên sâu rộng hơn và trong khung cảnh ấy, sự cô đơn của con người cũng đến cùng cực. - Phép tiểu đối "sông dài trời rộng"

+ Cụm từ "bến cô liêu": Tận cùng sự mênh mang của cảnh vật và nỗi cô độc của con người.

- "Bèo dạt... hàng nối hàng": Hình ảnh ẩn dụ gợi lên thân phận của bao kiếp người nổi trôi, lênh đênh, vô định giữa dòng sông cuộc đời rộng lớn.

+ Câu hỏi tu từ "về đâu" khắc khoải, da diết đặt ra cho cuộc đời, cho xã hội và chính bản thân người nghệ sĩ

+ Từ láy "mênh mông", "lặng lẽ" kết hợp với điệp từ "không", cụm từ "không một chuyến đò ngang, không cầu": Khắc họa rõ nét sự hoang vắng của cảnh vật và sự cô đơn, lạc lõng của con người.

- "Bờ xanh tiếp bãi vàng": Gợi tả khung cảnh mênh mông đến hút tầm mắt, trong khung cảnh ấy, con người hiện lên thật nhỏ bé, cô đơn.

c) Bóng chiều và nỗi niềm tâm sự của nhà thơ: "Lớp lớp... nhớ nhà" - Bức tranh hoàng hôn có:

+ Mây và núi "Lớp lớp... núi bạc": Từ "đùn" kết hợp với từ láy "lớp lớp" tạo nên khung cảnh hùng vĩ, bao la.

+ Xuất hiện cánh chim nhỏ bé "chim nghiêng cánh nhỏ": Hình ảnh ước lệ tượng trưng quen thuộc của thi ca.

- Đứng trước khung cảnh bao la ấy, nhà thơ trào dâng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nỗi buồn trước thực cảnh đất nước đầy rối ren.

III. Kết bài

- Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận.

- Nêu cảm nhận của bản thân về bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang.

Bài tham khảo Mẫu 1

Khi nhận định về phong trào thơ mới, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã có những lời bình rất hay và thú vị: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Có thể thấy dường như tất cả những nỗi buồn của thơ mới đều tập trung ở Huy Cận, một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất điều đó chính là Tràng giang, một bài thơ hiện lên với phong cảnh thiên nhiên trữ tình cũng nhuốm đầy nỗi buồn mênh mang, vô định của nhà thơ. 

Tràng giang là bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng, tập thơ đầu tay của Huy Cận, đây là một bài thơ hay và tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới, đánh dấu phong cách thơ của Huy Cận trong rất nhiều nhà thơ mới cùng thời. Tràng giang được khơi nguồn cảm hứng từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, lời thơ và hình ảnh thơ thấm đẫm màu sắc cổ điển, bài thơ khắc họa phong cảnh thiên nhiên trong không gian buồn vắng mênh mông. Thông qua đó, nhà thơ đã bộc lộ tình đời tình người và lòng yêu quê hương đất nước thiết tha sâu nặng, nửa thầm kín.

Trước hết từ nhan đề Tràng giang, ta đã cảm nhận được được nỗi ám ảnh không gian trong tâm hồn Huy Cận, trong hay từ Tràng giang, vốn dĩ chúng ta thường quen miệng đọc là trường giang, thì tác giả lại tìm cách biến đổi thành điệp âm “ang”, như vậy tầng nghĩa của nhan đề đã có sự mở rộng. Âm mở rộng như vậy đã đem đến cho người đọc một cảm giác mới lạ, bởi lúc này đây Tràng giang không chỉ đơn thuần là một dòng sông dài mà còn là “đại giang”, là một dòng sông rất rộng và lớn, mênh mông bể sở, gợi tả một không gian mang tầm vũ trụ. Hơn thế nữa Tràng giang còn là một từ Hán Việt, mang sắc thái cổ kính, gợi ra những liên tưởng về một dòng sông không những mang những đặc điểm dài và rộng trong góc nhìn địa lý mà còn có chiều sâu trong tầm nhìn của lịch sử, trong dòng chảy của thời gian, ẩn chứa trong đó cả hàng nghìn năm văn hóa của dân tộc. Nhan đề mang tính khái quát, mang những nỗi niềm chung của nhân dân Việt Nam thời bấy giờ

Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, trước hết là gợi chúng ta đi đến hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, đồng thời định hướng cách hiểu về nội dung và cảm xúc chủ đạo của bài thơ, viết về không gian thiên nhiên rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ, chiều rộng bát ngát của bầu trời, chiều dài vô tận của dòng chảy, rồi thì chiều cao giữa trời và nước. Từ những đặc điểm ấy đã hé mở cảm xúc chủ đạo của nhà thơ, những nỗi nhớ bâng khuâng, nỗi hoang mang, lạc lõng giữa khung cảnh thiên nhiên quá đỗi rộng lớn, vô tận của một hồn thơ trữ tình nhỏ bé, lẻ loi.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Đại thi hào Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, thơ của Huy Cận cũng thế, mỗi một câu thơ ông tả một cảnh sắc và cảnh sắc ấy lúc nào cũng đượm một nỗi buồn man mác. “Sóng gợn trường giang buồn điệp điệp”, ý tả những con sóng gợn nhẹ trên dòng sông mênh mông gợi lên bao nỗi buồn, vô hồi vô hạn, triền miên không dứt, từ láy hoàn toàn “điệp điệp” mang đến cảm giác tuần hoàn, lặp đi lặp lại, sự quanh quẩn của nỗi buồn trong tâm hồn tác giả. Và trên dòng tràng giang đó xuất hiện một con thuyền, mang đến dấu hiệu của sự sống chứ không còn đơn thuần là cảnh vật tĩnh lặng nữa, từ xưa tới nay thuyền luôn điểm tô cho bức tranh sông nước, nhấn vào đó một cái sinh khí tươi đẹp, nước thì chở thuyền đi muôn nơi, nhưng trong Tràng giang thuyền đến lại gợi sự chia ly, hình ảnh này của nhà thơ đã đem chúng ta về với lối thơ cổ điển.

Trong thơ cổ điển, thuyền và nước mang tính ước lệ tượng trưng, bởi “Con thuyền xuôi mái nước song song”, thuyền trôi nước cũng chảy và dường như thuyền với nước tưởng có mối liên quan chặt chẽ nhưng lại chẳng bao giờ giao nhau, ở đây nhấn mạnh từ “song song” một từ láy gợi tả sâu sắc cái sự chia ly, một nỗi “sầu trăm ngả” trong vế tiểu đối “thuyền về về nước lại”, thổi vào khung cảnh một khối u sầu, một niềm dự cảm, buồn thương tan tác của những điều vốn tưởng bên nhau mãi mãi trong cõi lòng của nhà thơ. Trong một không gian đậm chất cổ điển thì câu thơ cuối đoạn đã mang đến một nét hiện đại sâu sắc, “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, đây là hình ảnh ẩn dụ cho biết bao kiếp người nhỏ bé, khô héo, cô đơn trôi dạt trên dòng sông cuộc đời mênh mông rộng lớn, không biết nơi đâu là bến đỗ bình yên.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Nếu như trong khổ thơ thứ nhất nhà thơ khái quát một không gian rộng lớn, hoang vắng thì đến khổ thơ thứ hai nhà thơ lại đặc tả cảnh hoang vắng trên sông, qua hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” kết hợp với biện pháp tu từ nhân hóa càng nhấn mạnh thêm nỗi buồn, cả một không gian rộng lớn như vậy lại chỉ có vài cái cồn cát thưa thớt, rồi thì vài ngọn gió hắt hiu, đã buồn lại càng buồn thêm. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, từ “đâu” có nghĩa là đâu đây, sự lắng nghe của Huy Cận giữa không gian cô quạnh có tiếng người, tiếng “làng xa vãn chợ chiều”, nhưng cũng có thể là một câu hỏi bâng khuâng với trời đất, với lòng tràng giang rộng lớn, chợ chiều đã vãn đang đâu rồi? Điều ấy gợi lên một nỗi buồn xao xác, trong khung cảnh chợ chiều tàn ở làng quê nghèo miền Bắc vào những năm trước cách mạng tháng 8. Cho dù là ở nghĩa “đâu” nào thì chúng ta cũng cảm nhận được sự cô đơn rợn ngập, chất chứa đầy trong tâm hồn của nhà thơ. Tiếp theo, tiểu đối “Nắng xuống trời lên” kết hợp với cụm từ đặc biệt “sâu chót vót” đã làm cho khung cảnh trời đã rộng, sâu lại càng trở nên sâu rộng vô cùng và trong khung cảnh ấy con người càng buồn, càng cô đơn, sự cô đơn đến cùng cực. Hình ảnh “Trời rộng sông dài” ở lời đề từ đã được đổi ngược lại trong khổ thơ này thành tiểu đối “Sông dài trời rộng” kết hợp với cụm từ “bến cô liêu”, Huy Cận đã cảm nhận đến tận cùng sự mênh mang của cảnh vật và nỗi cô đơn của con người.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh ẩn dụ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”, gợi lên thân phận của bao kiếp người, nổi trôi trên dòng sông cuộc đời mênh mông rộng lớn. Hai tiếng “về đâu” là câu hỏi khắc khoải, da diết đặt ra cho cuộc đời, cho xã hội và cho chính bản thân người nghệ sĩ. Những từ láy “mênh mông”, “lặng lẽ” đã khắc họa thêm sự hoang vắng của cảnh vật và sự cô đơn của con người, điệp từ “không” kết hợp với cụm từ “không một chuyến đò”, “không cầu” đã đẩy sự hoang vắng ấy lên đến cực điểm, chạm đến tận cùng nỗi cô đơn, lạc lõng giữa khung cảnh thiên nhiên rộng lớn và buồn bã. Cuối cùng chỉ có “Bờ xanh tiếp bãi vàng”, gợi ra khung cảnh mênh mông đến hút tầm mắt và trong khung cảnh ấy, con người thật nhỏ bé, thật cô đơn biết bao, bởi liệu có ai sẽ hiểu, sẽ tiếp nhận nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn tác giả.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Sau khi phóng hết tầm mắt ra xa đến tận cùng, Huy Cận lại nhìn lên bầu trời, nơi đây chỉ thấy mây và núi “mây cao đùn núi bạc”, từ “đùn” nghĩa là xếp chồng lên nhau kết hợp với từ láy lớp lớp đã tạo nên một khung cảnh hùng vĩ, bao la, rộng lớn. Trên cái nền trời ấy, bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ bé cô đơn, chim nghiêng cánh cho bóng chiều sa xuống, đây là một hình ảnh quen thuộc, hình ảnh ước lệ tượng trưng trong thi ca cổ điển. Trước khung cảnh ấy nhà thơ chậm rãi nhớ về quê hương, tuy vậy đây không chỉ là nỗi nhớ của một người con xa quê mà đây còn là nỗi niềm của cả một thời đại, một thế hệ luôn mang một nỗi nhớ quê hương, thiếu quê hương, bởi nó chẳng cần đến “khói hoàng hôn”. Ngẫm kỹ mới hiểu đây là nỗi buồn vong quốc sâu sắc trước thời cuộc rối ren.

Nếu nói đến cái đẹp về thiên nhiên trong bài thơ này thì quả thực Tràng giang đã làm được điều ấy. Huy Cận miêu tả khung cảnh trên một dòng sông với những gì vốn có, thậm chí cả những thứ quá nhỏ bé, tầm thường. Nhưng dưới con mắt đa sầu, đa cảm của thi nhân, ông đã biến hóa nó thành những hình ảnh đầy chất nghệ thuật. Cái đẹp không phải cứ phải hiện lên qua những cảnh sắc lung linh, mà đôi khi chỉ cần nó cũng đồng điệu với lòng người thì sự vật có tầm thường thì cũng trở nên đẹp đẽ.

Bài tham khảo Mẫu 2

Từ muôn đời nay, thiên nhiên vẫn luôn là người bạn tri âm tri kỷ của hồn mộng thi sĩ. Thiên nhiên gắn bó, đồng cảm và sẻ chia với thi nhân mọi xúc cảm cũng như nỗi lòng. Nếu như hoa lá cỏ cây say mê và rạo rực cùng tâm hồn sôi nổi Vội vàng của Xuân Diệu, trăng và đêm chao đảo điên cuồng cùng nỗi đau của Hàn Mặc Tử… và sông trời mây nước trong vũ trụ này sầu “ảo não” với nỗi buồn “vạn kỷ” của tâm hồn Huy Cận. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang rất đẹp, sinh động nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn tủi cô đơn của người nghệ sĩ.

Bài thơ mở ra một bức tranh thiên nhiên Tràng giang rất đẹp, bàng bạc một nét đẹp cổ xưa. Vẫn là đề tài quen thuộc ấy, từ những thi liệu và bút pháp nghệ thuật vốn có trong thơ cổ, nhà thơ của Lửa thiêng đã vẽ nên trên nền trời mây, sông nước mênh mông vô cùng, vô tận những sự vật nhỏ bé, đặc trưng.

Trong quá trình phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang, có lẽ điều khiến người đọc ấn tượng hơn cả là những hình ảnh như sóng gợn, thuyền trôi, gió đìu hiu, bến cô liêu, bèo dạt, mây cao, núi bạc, chim nghiêng… gợi nên cái hồn thiên nhiên của thơ ca từ bao đời này. Có lẽ, nếu cứ nhìn người ta vẫn ngỡ đó là không gian của cảnh đẹp tiêu sơ và vắng lặng vốn thấy trong thơ Đường. Thế nhưng, bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện ra trước hết là khung cảnh rợn ngợp bao la của đất trời.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh những con sóng nối tiếp, nối tiếp nhau đến tận chân trời. Sự kéo dài của những cơn sóng như bất tận tạo cảm giác dường như không gian cũng được mở rộng ra. Từ “gợn” được tác giả dùng thật khéo không chỉ gợi được sự chuyển động của sóng nước mà còn gợi được một cảm giác mơ hồ, nhẹ nhàng nhưng day dứt xao xuyến mãi không nguôi như những cơn sóng vẫn miệt mài ngày đêm xô vào bờ. Từ “gợn” ấy ta cũng từng bắt gặp trong ca dao

“Chiều chiều bước xuống ghe buôn
Sóng bao nhiêu gợn dạ em buồn bấy nhiêu”

(Ca dao)

Con sóng của đại dương hay chính là con sóng của tâm hồn đang xao xuyến? Cảm giác mơ hồ ấy ngày càng mạnh mẽ hơn để rồi bộc bạch trực tiếp thành một nỗi niềm “buồn điệp điệp”. Từ láy “điệp điệp” thường được dùng để diễn tả cảnh núi non hùng vĩ hay khung cảnh hùng tráng trong Việt Bắc.

“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Còn trong câu thơ của Huy Cận, bức tranh thiên nhiên Tràng giang với “điệp điệp” lại được dùng để chỉ nỗi buồn. Nỗi buồn vốn là một trạng thái cảm xúc vô hình chỉ có thể cảm thấy nhưng trong kết hợp này nỗi buồn ấy lại có hình có khối. Nỗi buồn ấy theo con nước mà tràn đầy. Đứng trước khung cảnh rợn ngợp của thiên nhiên ấy mấy ai mà không thấy buồn mấy ai mà không thấy mình nhỏ bé bất lực.

Bởi lẽ đó mà “con thuyền xuôi mái”. Con thuyền dường như cũng thấy mình bất lực trước dòng chảy. Dù có cố gắng mấy nhưng cuối cùng con thuyền vẫn xuôi theo dòng nước không thể cưỡng lại được. Đó cũng là sự bất lực của con người trước dòng chảy của thời gian. Giữa sự chảy trôi tuyến tính của thời gian, sự xuất hiện của con người chỉ như mây khói thoáng qua.

Phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang, ta thấy từ “song song” bỗng nhiên như vạch ra ranh giới giữa con thuyền và sóng nước gợi ra một cảm giác về sự chia li. Ở hai dòng thơ đầu, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng tinh tế trong cách sử dụng từ láy. “Điệp điệp” đối với “song song”. Không chỉ đối về mặt thanh điệu mà còn đối với nhau về ý. Cả hai cùng gợi ra một không gian rộng lớn chất chứa nỗi buồn nhân thế.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Thuyền và nước vốn gắn liền nhau nhưng trong khổ thơ đầu lại chia lìa nhau. Nếu ở câu thơ trên, thuyền và nước dường như “song song” thì ở dòng thơ này thuyền và nước lại tách rời nhau mỗi nơi mỗi ngả. Sự chia li của cảnh vật hay cũng chính là sự chia li của lòng người. Nghệ thuật tiểu đối “thuyền về nước lại” càng nhấn mạnh thêm nỗi niềm ấy. Nếu ở trên là “buồn điệp điệp” thì bây giờ lại là “sầu trăm ngả”. Ở trạng thái “sầu” ta bắt gặp một cảm xúc có phần mạnh mẽ, mãnh liệt và ám ảnh hơn “buồn”. Như trong câu thơ của Nguyễn Du “Sầu đông càng lắc càng đầy”.

Nỗi sầu ấy không chất chồng chất đống mà lan tỏa ra khắp “trăm ngả”. “Trăm” là một con số ước lệ chỉ số lượng nhiều. “Trăm ngả” không phải là hướng chảy của dòng nước mà là của nỗi sầu. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn thể hiện ở nỗi sầu theo con sóng xô dạt đến tận chân trời xa. Con sóng lòng bất tận ấy ta cũng từng bắt gặp trong vần thơ nhẹ nhàng đằm thắm nhưng không kém phần da diết của Xuân Quỳnh.

“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”

(Sóng – Xuân Quỳnh)

Giữa không gian rộng lớn mênh mông, không chỉ có sự xuất hiện nhỏ bé của chiếc thuyền mà bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn được điểm tô thêm bằng sự xuất hiện của cành củi khô.

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Kết cấu đảo ngược đã nhấn mạnh thêm sự xuất hiện của cành củi. Đây là một hình ảnh độc đáo. Khi nói về sự nhỏ bé của kiếp người, thi nhân thường dùng hình ảnh chiếc thuyền

Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”

(Tự tình III – Hồ Xuân Hương)

Hay như tác giả dân gian so sánh với:

“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”

(Ca dao)

Nhưng Huy Cận lại thể hiện số phận nhỏ bé của con người qua hình ảnh cành củi. Bản thân hình ảnh cành củi đã gợi lên một sự nhỏ bé chỉ đành lênh đênh trôi nổi trên dòng nước không có bến bờ để neo đậu nhưng đó còn là một cành củi khô. Không chỉ cô đơn mà còn là một sự khô héo đến thiếu sức sống.

Lần đầu tiên trong thơ văn xuất hiện hình ảnh cành củi khô tuy đơn sơ nhưng lại giàu sức gợi. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện lên với hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ, cô quạnh mênh mông trên sóng nước cũng là hình ảnh con người bơ vơ đến tận cùng giữa vòng xoáy của cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng của thi nhân khi đứng trước dòng sông rộng lớn bao la mà nghĩ về cuộc đời. Sự cô đơn không chỉ xuất hiện ở nơi dòng sông rộng lớn mênh mông mà còn xuất hiện ở khung cảnh hai bên bờ sông.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện lên với cảnh vật đa dạng và phong phú. Không gian cũng được mở rộng hơn. Từ không gian hẹp của cồn nhỏ, chợ chiều đến không gian rộng lớn của sông dài trời rộng. Tất cả ngơ như đầy sức sống nhưng cuối cùng lại chìm trong sự tịch liêu. Từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi lên sự buồn bã quạnh vắng.

Nghệ thuật tăng cấp càng khiến cho không gian tịch mịch hơn. Chợ đã tàn người cũng tàn vốn đã buồn chợ chiều nay càng buồn hơn. Âm thanh chợ tàn ấy vang vọng từ xa đến nơi đây. Từ “đâu” vang lên vừa như một âm thanh mơ hồ xa xôi vừa như một là tự hỏi âm thanh ấy từ đâu mà vang vọng lại.

Dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện nhưng không tương vui giòn giã, thúc giục như bản hòa ca của cuộc sống mà im vắng. Nghệ thuật tiểu đối lại một lần nữa phát huy hiệu quả trong kết hợp đặc biệt “nắng xuống trời lên”. Nắng và trời bỗng chốc như tách rời nhau để mở rộng không gian. “Xuống” và “lên” là hai chiều hướng ngược nhau đặt trong cùng vế đối khiến cho không gian như được kéo dãn ra cùng với nỗi niềm của con người.

Có phải vì lẽ đó mà không gian trở nên “sâu chót vót”. Từ láy “chót vót” vốn được dùng để chỉ độ cao nhưng Huy Cận lại dùng từ láy này để gợi mở độ sâu. Phải chăng đây là một dụng ý nghệ thuật của thi nhân. Cách kết hợp ấy đã khiến không gian của bức tranh thiên nhiên Tràng giang như được đẩy ra hết mọi chiều kích của vũ trụ. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng. Nỗi buồn tựa hồ thấm đẫm trong cả không gian.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn hiện lên với hình ảnh bèo được dùng để diễn tả số phận con người bấp bênh vô định. Và Huy Cận cũng dùng hình ảnh cánh bèo trong thơ mình để một lần nữa nhấn mạnh sự nhỏ bé bấp bênh của đời người. Bèo dạt không phải nương theo cơn sóng để sinh tồn là mặc cho cơn sóng xô đẩy. Không phải là một cánh bèo mà cả là một hàng. Hàng nối hàng nối tiếp nhau nhưng đau lòng hơn đó không là cuộc sống của một kiếp người mà là của một bộ phận không nhỏ thanh niên trong hoàn cảnh xã hội bế tắc đương thời.

Từ láy mênh mông đứng đầu dòng thơ diễn tả được sự rộng lớn bao la của không gian. Điệp từ “không” xuất hiện liên tiếp trong hai dòng thơ gợi sự vắng vẻ cô đơn tuyệt đối. Thi nhân như từ chối mọi mối quan hệ, dường như tự cô lập mình với cuộc đời xung quanh và cũng đồng thời phủ nhận mối liên kết giữa người với người.

Chính vì không có mối liên kết nào mà con người đứng trước không gian rộng lớn dễ rơi vào trạng thái cô đơn. Từ láy lặng lẽ đứng đầu câu càng tăng thêm sự vắng lặng đến nao lòng của không gian. “Xanh”, “vàng” là những gam màu tươi sáng. Sự xuất hiện này điểm tô thêm những gam màu tươi sáng cho bức tranh thiên nhiên nhưng không xua đi được nỗi cô đơn giá băng của lòng người.

Tiếp đến là khung cảnh thiên nhiên Tràng giang ở hai bên bờ, tầm mắt của thiên nhiên lại hướng lên trên và cũng như phóng tầm nhìn ra xa hơn nơi chân trời để thấy

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

Câu thơ mở đầu bằng từ láy “lớp lớp” diễn tả số lượng nhiều. Những đám mây như chất chồng chất đống vào nhau hết lớp này đến lớp khác. Huy Cận đã sử dụng tinh tế động từ “đùn”. “Đùn” không chỉ diễn tả sự chồng chất của đối tượng mà còn diễn tả được sức sống như đang căng tràn xô đẩy nhau, gợi được vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên – núi mây khổng lồ được vạt nắng chiếu vào tạo thành hình ảnh núi bạc. Ta cũng từng bắt gặp từ đùn ấy trong ý thơ của Nguyễn Trãi

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

(Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi)

Giữa đám mây bao la là cánh chim nhỏ bé đối lập với không gian rộng lớn. Thế nhưng, giữa hai đối tượng không có từ liên kết như một khoảng trống giữa câu thơ gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn thể hiện ở cánh chim như đang chở nặng bóng chiều, vì bóng chiều mà cánh chim bỗng trở nên nhỏ bé hơn? Hay vì cánh chim chao lượn như kéo cả bóng chiều? Dù hiểu theo cách nào ta vẫn thấy cánh chim cô đơn giữa một khoảng không mênh mang. Cánh chim bơ vơ lạc lõng hay chính lòng người cũng hoang mang tìm kiếm một điểm tựa. Một khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ xuất hiện. Trên phông nền thiên nhiên là cả một tấm lòng dành cho đời.

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Lòng quê chính là tình cảm thiêng liêng dành cho quê hương đất nước. Câu thơ gợi lên cảm giác xốn xang, không dứt, trở đi trở lại như một nỗi ám ảnh. Từ đó cho thấy tình yêu với đất nước quê hương như lan tỏa thấm đãn theo từng con nước. Nỗi nhớ vì vậy mà trở nên da diết hơn.

Thôi Hiệu nhìn thấy làn khói sóng mờ ảo trên sông mà nhớ đến quê nhà. Còn Huy Cận không cần một dấu hiệu gợi nhắc mà tình cảm ấy lại ùa về tràn ngập tâm hồn. Tiếng sóng của không gian biển lớn bao la hay chính là tiếng sóng lòng của nhà thơ, cuồn cuộn không nói nên lời.

Đây chính là nỗi niềm của một người đứng trên quê hương mà lại nhớ về quê hương. Và đó cũng là nguyên nhân sâu xa cũng nỗi cô đơn, sự bất lực trước thực tại. Liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn đất nước lúc bấy giờ ta càng thấu hiểu thêm tâm trạng của thi nhân khi đứng trước cảnh sông dài trời rộng nhưng bến lại là bến bờ quạnh vắng cô liêu.

Bài tham khảo Mẫu 3

Thiên nhiên là đề tài muôn thuở gợi cảm hứng sáng tác thơ ca cho các thi nhân, cũng giống như bao nhà thơ trung đại hay các nhà thơ mới khác Huy Cận cũng tả cảnh thiên nhiên nhưng đó không phải là thiên nhiên giàu sức sống, mơn mởn như trong “Vội vàng” của Xuân Diệu mà trong bài thơ “Tràng giang” đó là khung cảnh bao la, rộng lớn của sông nước mây trời. Bức tranh đó tuy đẹp mà buồn quạnh vắng, cô liêu. Bức tranh vừa mang nét đẹp cổ điển và hiện đại ẩn đằng sau đó là nỗi buồn sâu thẳm và tình yêu quê hương đất nước thầm kín của thi sĩ Huy Cận.

Ngay trong nhan đề “Tràng giang” đã gợi ra cảnh sông nước mênh mông, khi nhà thơ đứng trên bến Chèm sông Hồng quan sát cảnh vật xung quanh mà sáng tác, dù đó là một con sông cụ thể có tên gọi nhưng thi sĩ dùng cách nói khác để gợi ra hình ảnh dòng sông trải dài đến vô tận. Lời đề từ thể hiện cảm xúc chủ đạo của tác phẩm là nỗi buồn, nỗi nhớ xuyên suốt toàn bài của thi sĩ cô đơn trước cảnh “trời rộng nhớ sông dài”.

Trước tiên ta thấy thiên nhiên ở đây mang dáng dấp cổ kính trong thơ Đường. Thi sĩ cũng tả cảnh sông nước, mây trời có sử dụng các hình ảnh thuyền, bèo, cánh chim…đó đều là các thi liệu trong thơ ca cổ được các nhà thơ trung đại dùng để miêu tả cảnh chiều tà với nỗi buồn nỗi nhớ quê hương của những người khách lứ thứ xa quê.

Nhưng thiên nhiên ấy cũng mang đậm chất chất dân tộc rất gần gũi với cuộc sống người dân Việt. Dù thi sĩ miêu tả cảnh sông nước của con sông Hồng cụ thể nhưng lại không gọi tên mà chỉ tả cảnh vật để cho ta thấy đó là bất kì con sông nào của đất Việt đều hiện lên rất quen thuộc của dòng sông sóng gợn, thuyền xuôi mái chèo hay bèo dạt trên sông và tiếng chợ chiều xa xa... Tuy nhiên thiên nhiên trong bài thơ cũng mang những dấu ấn đặc sắc riêng biệt bởi hình ảnh: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng” nó không phải là từng cánh bèo, khóm bèo mà là hàng nối hàng đang bị trôi dạt bởi dòng nước rất nhiều. Thiên nhiên trong cái nhìn của thi nhân thật khác biệt vừa có nét cổ kính trang nhã trong thơ xưa, vừa hiện đại mang đậm phong vị dân tộc.

Không gian trong bức tranh thiên nhiên là sự mênh mông, bao la đến rợn ngợp của “Nắng xuống trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Nắng với trời sẽ chẳng thể tách rời ấy vậy mà “Nắng xuống, trời lên” tạo nên một khoảng cách sâu chót vót. Người ta nói cao chót vót còn với thi nhân nó lại là sâu bởi nắng càng xuống khuất bóng nhường hoàng hôn thì trời càng cao tạo nên độ sâu thăm thẳm. Dường như nhà thơ đang đứng từ dưới nhìn lên nên mới có thể cảm nhận được điều đó. Trải rộng ra là “Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật”. Thi nhân muốn có gì đó để bấu víu lấy cảm xúc cho đỡ trơ trọi nhưng đổi lại chỉ là một chữ không được điệp lại hai lần ở câu trên và câu dưới chỉ còn biết lặng lẽ với bờ xanh tiếp bãi vàng. Mọi thứ trở nên tĩnh lặng vô cùng, dường như sự sống ở đây chỉ có một mình nhà thơ với cảnh vật đẹp mà cô liêu, ảm đạm.

Giữa không gian mênh mông, vời vợi ấy các sự vật hiện lên với sự nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng. Đó là hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Thiên nhiên không có sức sống nó chỉ là một cành củi khô từ rừng sâu xa thẳm lạc giữa chốn sông nước. Cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ thật độc đáo nhấn mạnh đặc điểm đối tượng. Câu thơ khiến cho ta nhớ tới hình ảnh chiếc bách trong thơ Hồ Xuân Hương “Chiếc bách buồn vì thân phận nổi nênh/ Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh” gợi đến tâm trạng cô đơn trước thiên nhiên và cuộc đời của tác giả. Đó là cánh chim nghiêng trong bóng chiều xa giữa khung nền “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều cùng sà xuống mặt nước tràng giang hay bóng chiều đè nặng lên cánh chim khiến nó phải chao nghiêng đôi cánh. Cánh chim nhỏ dưới bóng chiều buông xuống mang nặng tư tưởng tác giả, ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé bị bão táp cuộc đời xô đẩy, ngả nghiêng ẩn dụ cho cái tôi cá nhân phiền não của thi nhân trải nỗi buồn ra khắp không gian.

Sự chuyển động của cảnh vật cũng rất nhẹ nhàng như có như không của “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” hay gió đìu hiu thổi trên cồn cỏ. Sóng gợn nhẹ trên mặt nước ta đã từng bắt gặp trong câu thơ Nguyễn Khuyến “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí” thật bình lặng với nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Cùng với đó là “Con thuyền xuôi mái nước song song/ Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Hai sự vật thuyền và nước đi liền với nhau nhưng trong cái nhìn của thi nhân dường như có sự tan tác, li biệt. Chi tiết “xuôi mái” cho thấy sự phó mặc, buông xuôi. Thuyền và nước thường phải có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng ở đây ta thấy nó như rời rạc, tách nhau ra bởi “thuyền xuôi” còn “mái nước song song”, thuyền và nước lại ngược hướng với nhau “thuyền về nước lại” tạo ra sự ngăn cách. Nỗi sầu của nước tan chảy ra trăm ngả trên sông. Nỗi sầu ấy cũng là nỗi sầu nhân thế của thi nhân mang tâm trạng chán nản, buồn tủi. Hình ảnh con thuyền bơ vơ, cô độc là một thi liệu quen thuộc đã từng xuất hiện trong thơ xưa như: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu” (Bóng buồm đã khuất bầu không/ Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời).

Ẩn đằng sau bức tranh thiên nhiên đẹp mà buồn ấy là tâm trạng của thi nhân “Lòng quê dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” được gợi từ hai câu thơ trong bài “Lầu Hoàng Hạc” của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” nếu tiền nhân đời Đường bên Trung Hoa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê hương thì Huy Cận thật sáng tạo khi “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đó còn là nỗi buồn của tầng lớp trí thức lúc bấy giờ khi đứng trước hoàn cảnh nước mất nhà tan của dân tộc cho thấy tình yêu quê hương đất nước thầm kín được thể hiện trong thơ Huy Cận.

Với những nét đặc sắc nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại trong lối thơ bảy chữ niêm luật chặt chẽ như thơ Đường, dồi dào nhạc điệu đã khiến cho bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tràng giang” hiện lên thật đẹp mà buồn ảm đạm mang nặng tư tưởng của tác giả.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay

2K7 tham gia ngay group để nhận thông tin thi cử, tài liệu miễn phí, trao đổi học tập nhé!