Bài 7. Tin yêu và ước vọng

Phân tích bài thơ Lá đỏ


Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ lớn, một tài năng toàn diện đặc biệt bởi năng lực sáng tạo và thành công trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật

Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Kết nối tri thức

Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Bài mẫu 1

Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ lớn, một tài năng toàn diện đặc biệt bởi năng lực sáng tạo và thành công trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Ông viết tiểu tuyết, truyện ngắn, tiểu luận, phê bình văn học, viết kịch, soạn nhạc và sáng tác thơ, ở thể loại nào cũng tạo được dấu ấn đặc sắc.

Riêng với thơ, Nguyễn Đình Thi là một trong số những người luôn đi tiên phong trong việc thể nghiệm tìm kiếm khai phá con đường mới cho thơ Việt Nam. Kết hợp nhuần nhuyễn sáng tạo giữa thơ truyền thống với hiện đại, thơ Nguyễn Đình Thi đằm thắm, tinh tế, giàu nội tâm nhưng cũng sắc sảo đầy thuyết phục bởi tư duy trí tuệ.

Cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Đình Thi là cảm hứng về đất nước. Ông viết về đất nước gian khổ đau thương quật khởi và ngời sáng với chiều sâu lịch sử và mang tính khái quát bởi tầm cao thời đại. Và chính những bài thơ đất nước đã làm nên vóc dáng nhà thơ.

“Lá đỏ” là một trong số những bài thơ như thế được viết trước khi những đoàn quân Việt Nam bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại, giải phóng hoàn toàn miền Nam nhưng đã tiên cảm được thắng lợi tất yếu của dân tộc.

Chỉ bằng tám câu thơ mà Nguyễn Đình Thi đã tái hiện cả một cuộc hành quân vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc – cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, tiến vào Sài Gòn, giải phóng Miền Nam , thống nhất đất nước.

Nguyễn Đình Thi như có duyên nợ với Trường Sơn. Vào những thập niên 30 của thế kỷ này, gia đình ông ở Luang Prabang Lào, đã vượt từ Tây Trường Sơn sang Đông Trường Sơn trở về Việt Nam sinh sống.

Và, theo ghi chép trong cuốn sổ tay ông để lại: vào cuối năm 1974 đầu năm 1975 ông được đi dọc Trường Sơn đến đất Nam Bộ. Nêu lên chi tiết này để thấy rằng bài thơ “Lá đỏ” được viết khi nhà thơ trực tiếp đến và sống với Trường Sơn, nó minh chứng cho sự chân thực và sống động của “chất liệu Trường Sơn” trong bài thơ “Lá đỏ”.

Trường Sơn theo cảm nhận của Nguyễn đình Thi trước hết là một thiên nhiên hùng vĩ và tươi đẹp:

Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ

Nhà thơ đứng trên đỉnh Trường Sơn “lộng gió”, nơi không gian khoáng đạt, ở một thế đứng có thể mở được tầm nhìn rộng lớn, bao quát. Nhà thơ Tố Hữu từng viết “Trường Sơn đông nắng tây mưa/ Ai chưa đến đó như chưa rõ mình” (Nước non ngàn dặm). Thì đây , Nguyễn Đình Thi đã đứng ở trên cao của dải Trường Sơn, không chỉ “rõ mình” ông còn nhận ra  sức mạnh của dân tộc Việt Nam, nhận ra thiên nhiên Trường Sơn đẹp lạ lùng: “Rừng lạ ào ào lá đỏ”.

Bao nhiêu người làm thơ về Trường Sơn. Bao nhiêu tâm tính, vẻ đẹp, sắc màu Trường Sơn đã được nhiều nhà thơ khai thác. Vậy mà những chiếc lá đỏ rực nổi bật giữa màu xanh điệp trùng của đại ngàn Trường Sơn  lại chỉ “bay” vào thơ của Nguyễn Đình Thi. Thật kỳ diệu và ngỡ ngàng.

Cơn cuồng phong đã làm nên trận mưa lá đỏ ào ào tuôn đổ hào phóng và mãnh liệt như sức sống của Trường Sơn. Màu đỏ của lá  phối lên bức tranh thiên nhiên nên thơ và hoành tráng, khảm vào tâm cảm chúng ta, lay động miền sâu thẳm tình yêu đất nước. Trường Sơn trở thành một địa chỉ thiêng liêng vì đó  cũng là con đường dân tộc Việt Nam ra trận.

Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa  trời lửa

Con đường ấy đầy gian khổ, khắc nghiệt. “Đoàn quân vẫn đi vội vã” với muôn bước chân mạnh mẽ điệp trùng, hối hả, nối dài như rung chuyển núi rừng, làm “nhòa trời lửa”, đạp bằng khó khăn, vượt lên nắng nôi, lửa đạn để tiến lên phía trước. Câu thơ diễn tả quang cảnh cuộc hành quân hào hùng thần tốc, gợi lên  một không khí sử thi ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Trong bối cảnh chung đó hiện lên một hình ảnh đẹp, một biểu tượng về cuộc chiến tranh nhân dân –“em gái tiền phương”, nữ chiến sĩ giao liên hay cô gái thanh niên xung phong. Sự có mặt của cô gái trên đỉnh Trường Sơn nơi tuyến đầu Tổ quốc đã nhắc với mai sau về cuộc chiến đấu toàn dân tham gia, trong đó có những người con gái trẻ trung xinh đẹp mảnh mai, mà lẽ ra họ sinh ra để được sống yên bình.

Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường

Thơ ca những năm chống Mỹ đã khắc hoạ nhiều tư thế dáng đứng của người Việt Nam, như: dáng đứng của anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất tạc vào thế kỷ ( thơ Lê Anh xuân). Tư thế của “O du kích nhỏ dương cao súng, Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi  đầu” (Thơ Tố Hữu).

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đi dọc Trường Sơn, gặp cô gái tiền phương đứng ở bên đường, ông vội vàng ghi lại bằng thơ cái hình ảnh rất tiêu biểu, rất đặc trưng, sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Cái hình ảnh “vai áo bạc, quàng súng trường” rất đỗi bình dị gần gũi, thân thương như hình ảnh quê hương. Hình ảnh ấy cũng là tâm điểm nổi bật giữa rừng Trường Sơn ào ào lá đỏ, như một dấu son lịch sử.

Nhưng đoàn quân nối dài vô tận không ngừng nghỉ, nhà thơ – người chiến sĩ chỉ kịp ghi nhận cái hình dáng quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp:

Chào em, em gái tiền phương
Hẹn  gặp nhé giữa Sài Gòn

Người đứng lại bên đường như cột mốc, như điểm tựa và đoàn quân ra đi mang theo niềm vui phơi phới, niềm tin tất thắng. Sài Gòn, cái đích của cuộc  tiến công đã rất gần, con đường đi đến chiến thắng chẳng còn bao xa. Sài Gòn, điểm hẹn của bao thế hệ Việt Nam. Lời chào, lời hẹn ấy chứa đựng nhiệt huyết của tuổi trẻ, của lý tưởng độc lập tự do, của niềm lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng.

Bài mẫu 2

Nguyễn Đình Thi (1924-2003) quê ở Hà Nội, ông là một nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học, nhạc sĩ. Thơ ông tự do, phóng khoáng, đồng thời cũng hàm súc, giàu chất suy tư, dạt dào cảm hứng yêu nước. Thể loại mà ông tâm huyết nhất vẫn là thơ, bởi đối với ông thơ như là một đứa con tinh thần mà cả cuộc đời của ông hướng tới và theo đuổi.

Thơ của ông thường mang cảm hứng về đất nước, con người trong thời kì kháng chiến. Ông viết về đất nước gian khổ đau thương, con người chiến đấu để giành lại độc lập trong thời kì chiến tranh gian khổ. Một số tác phẩm tiêu biểu: Diệt phát xít (1945), Người Hà Nội (1947), Đất nước (1955)……

Bài thơ Lá đỏ được sáng tác tháng 12 năm 1974 – thời điểm cuộc kháng chiến thống nhất đất nước bước vào giai đoạn cuối, toàn quân và dân ta đang dồn sức cho tiền tuyến. Ông đã chứng kiến hiện thực của cuộc chiến tranh khốc liệt “giữa nghìn tiếng nổ rung đêm lửa”. Sự hy sinh mất mát, đớn đau do chiến tranh gây ra và con người lại chính là những cá thể bị tổn hại nhiều nhất…

Nhưng cũng chính từ những tổn thất, đau thương, mất mát ấy lại hiện lên một vẻ đẹp diệu kỳ, lãng mạn của bức tranh thiên nhiên Trường Sơn bao la, với sắc đỏ phủ trời xanh của màu lá đỏ. Xúc động trước cảnh thiên nhiên Trường Sơn lá đỏ ào ào tung bay trong gió và trong khoảnh khắc đó bài thơ được ra đời, và trở thành khúc ca ra trận dọc theo chiều dài đất nước. Bài thơ còn được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc và thành bài hát thể hiện khung cảnh oai hùng của đoàn quân ra trận.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh gặp em trên cao, trên cao ở đây đầu tiên là nói về vị trí địa lý có thể là lúc đó tác giả đã gặp được em từ trên núi cao, đèo cao. Trên cao ở đây không chỉ nói về vị trí địa lý mà còn nói đến vị trí về tình cảm trong lòng của tác giả, tình cảm thiêng liêng này được đặt trên cao hơn mọi tình cảm khác.

Đó là một nơi đẹp đẽ, thoáng đãng, đứng từ trên cao nguyên lộng gió ta cảm nhận được một khoảng không vô tận, bao la. Và thể hiện trước không gian đó là hình ảnh rừng lá đỏ ào ào, bay trong gió.

Giữa khung cảnh bầu trời xanh mát mẻ, nổi bật lên là hình ảnh là đỏ, màu lá đỏ như tô điểm thêm cho bầu trời Trường Sơn giữa lúc khói lửa mịt mù, do bom đạn thả xuống đất Trường Sơn, phải chăng chính hình lá đỏ đó đã chạm đến trái tim của tác giả. Bao nhiêu chiếc là đỏ đó cũng là bấy nhiêu những tâm tư, tình cảm của tác giả gửi vào trong đó.

Mùa lá đỏ nên thơ ấy đã tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm hùng tráng và màu đỏ ấy cũng đã vẽ lên sức sống cho con đường Trường Sơn mùa ra trận. Giữa lúc đất nước đang diễn ra cuộc chiến đấu căng go và gay gắt, màu lá đỏ như tiếp thêm sức mạnh cho những người lính trên chiến trường có thêm sức mạnh để chiến đấu vì quê hương, đất nước thân yêu của mình.

Bốn câu thơ tiếp theo là hình ảnh con đường Trường Sơn mùa ra trận. Mở đầu là hình ảnh cô thanh niên xung phong đứng bên đường. Nhắc đến con đường Trường Sơn không thể thiểu hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong, vì lòng yêu nước mà sẵn sàng lên đường.

Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường

Hình ảnh cô gái trẻ trung, xinh đẹp, dồi dào sức trẻ. Đáng lẽ ra những cô gái này phải được hưởng cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Thế nhưng, vì đất nước còn đang có giặc xâm chiếm nên những cô gái ấy sẵn sàng lên đường, đôi vai gầy vẫn sẵn sàng quàng súng xông ra chiến trường.

Nhắc đến các cô gái thanh niên xung phong cũng rất nhiều nhà thơ lấy cảm hứng để viết. Trong bài thơ “Cái điểm sáng ấy” của tác giả Trần Nhật Thu cũng đã viết về những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

“Mấy năm rồi chạy trên tuyến Trường Sơn
Có đêm nào như đêm nay nhớ mãi
Những cọc tiêu là những cô em gái
Thanh thản đứng bên đường trọng điểm – xe lên.”

Hình ảnh con đường Trường Sơn được tác giả nhắc đến trong hai câu thơ.

Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa.

Đó là con đường đầy gian khổ và khắc nghiệt. Nhưng đoàn quân ta vẫn bước chân chập trùng, hối hả. Nó như rung chuyển đạp lên mọi khó khăn, thử thách. “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa” bầu trời, khung cảnh Trường Sơn mịt mù, không phải do sương hay do cát bụi mà đây là do bom đạn, súng pháo bay nghi ngút. Khung cảnh thật khốc liệt làm sao.

Qua câu thơ này ta có thể cảm nhận được khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng cũng vô cùng khốc liệt và máu lửa. Đó là một không gian đẹp và cũng chính là một biểu tượng của chiến tranh đã được bài thơ khắc họa.

Hai câu thơ cuối của bài thơ là lời chào tạm biệt và lời hứa hẹn gặp lại giữa Sài Gòn khi đất nước ta thống nhất.

Chào em em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn….

Hình ảnh em ở đây vừa hiện diện của hậu phương đang dồn mọi sức lực cho tiền tuyến vừa là đóng vai trò người lính ở tiền phương. Một lời chào nghe thì rất đơn giản nhưng ẩn sâu bên trong lời chào đấy là lời hứa hẹn về ngày trở lại khi đất nước đã giành được độc lập.

Chiến dịch cuối cùng của cuộc trường chinh ấy sẽ mang tên Bác, gặp nhau giữa Sài Gòn là gặp nhau trong ngày toàn thắng. Không còn khói bụi rực trời nữa mà là khung cảnh vui mừng khôn xiết khi đất nước ta giành được độc lập.

Bằng thể thơ tự do, giọng thơ chân thực, hình ảnh của bài thơ cũng rất gần gũi, khái quát được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam ta. Đặc biệt hình ảnh lá đỏ tạo cảm giác mạnh, mang ý nghĩa biểu trưng cho những dự cảm, dự báo về thắng lợi tất yếu của dân tộc. Bài thơ Lá đỏ là một bài thơ hay và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Bài mẫu 3

Nguyễn Đình Thi là người đa tài ít gặp trong văn nghệ. Ông viết được văn, kịch, nhạc,phê bình lý luận văn học và viết được cả thơ. Thể loại mà ông tâm huyết nhất vẫn là thơ, bởi đối với ông: “Thơ là cái thiết tha, nhất của tôi, và cả cái tìm tòi rất khổ của tôi”.

Thơ Nguyễn Đình Thi mang cảm hứng về đất nước, nhân dân. Ông viết về đất nước gian khổ đau thương quật khởi và ngời sáng với chiều sâu lịch sử và mang tính khái quát bởi tầm cao thời đại, trong đó có bài thơ Lá đỏ.

“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ

“Trên cao” trong câu thơ không chỉ nói về vị thế địa lý (dốc cao, đèo cao) mà còn hàm ý về vị thế trong tư tưởng, trong tình cảm. “Cao” ở đây còn là cao quý, cao cả.

Câu tiếp theo “Rừng lạ, ào ào lá đỏ”. Từ “lạ” trong câu thơ đã gây ấn tượng mạnh, bởi lạ là vì mới gặp, lần đầu tiên thấy sắc đỏ rực lửa trong mùa Thu Tây Nguyên chăng?

“Lạ” là một cảm giác rất đúng, rất chân thật”. “Lạ” vì giữa nơi chiến trường dữ dội như vậy lại xuất hiện những người em gái trẻ trung, mảnh mai nhưng rất đỗi kiên cường khi ngày đêm phải đối mặt với hiểm nguy dẫn đường cho xe băng qua những quãng đường khó và cái cảm giác lạ đó bỗng biến mất khi nhà thơ nhận ra hình của em thật gần gũi, thân thương bởi đó là em của quê hương, của nơi chốn ta quay về. Thêm nữa, hai từ “lộng gió” như lòng người rộng mở, niềm tin phơi phới chào đón những luồng gió cách mạng.

Trong không khí của cuộc cách mạng sục sôi và dưới ánh sáng của lý tưởng mới, hơn bao giờ hết hình ảnh người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp mới – vẻ đẹp của những con người đã được giải phóng, được tháo ra khỏi vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến, để hòa mình vào công cuộc chung của đất nước.

là những cô thanh niên xung phong trên tuyến lửa Trường Sơn: “Em đứng bên đường như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường”. Hình ảnh “vai áo bạc” đã gợi ra biết bao tháng ngày mưa dầm nắng lửa ở núi rừng. Thế nhưng, những người con gái mảnh mai ấy vẫn vượt qua tất cả để có mặt chính tại đây, với súng trường quàng trên vai.

Mặc dù nơi núi rừng, với mây mù giăng phủ, với gió lộng bạt ngàn, với buổi chiều lá đỏ, đâu đó ánh lửa của đạn bom và sáng rực trên nền trời, máu, nước mắt, hi sinh nhưng tất cả vì miền Nam ruột thịt, họ vẫn kiên trì, anh dũng bám trụ từng tất đất “… Đoàn quân vẫn đi vội vã/ Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”.

Hai câu cuối cùng: “Chào em, em gái tiền phương, ơi em gái tiền phương. Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn!”. Đọc hai câu này ta như thấy cuộc gặp gỡ bất chợt thoáng qua với một không khí khẩn trương, nhanh vội nhưng không kém phần xúc động mãnh liệt, rồi để lại cho nhau lời hẹn quyết tâm chiến thắng.

Sự thật và chính nghĩa luôn ở phía chúng ta, với tinh thần anh dũng bất khuất của những người con trai, con gái trên rừng Trường sơn năm ấy đã góp phần làm nên chiến thắng 30-4-1975, lá cờ Cách mạng được cắm trên nóc dinh Độc lập. Đây là thời điểm đánh dấu thành phố Sài Gòn – Gia Định hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Tái sinh đất nước, những chàng trai những “em gái tiền phương năm ấy” có bao người được gặp lại nhau và có bao nhiêu người phải lỗi hẹn? Họ ra đi mãi mãi không về. Ôi! những tháng năm không thể nào quên, ngày càng thêm những nỗi nhớ, nỗi khát khao hiện lên cả ở trong giấc mơ của những người đồng đội: “Trường Sơn năm đợi tháng trông/ Ngày tìm đồng đội đêm nồng chiêm bao” (Đồng đội – Đinh Ngọc Du).

Những chiến sĩ, những “em gái tiền phương” năm ấy vẫn sống mãi trong tấm lòng biết ơn và trong những thắng lợi lớn lao của dân tộc hôm nay và ngày mai: “Đất nước/Của những người con gái, con trai/Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép/Xa nhau không hề rơi nước mắt/Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt…” (Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi – Nam Hà).

Bài thơ Lá đỏ được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ sau đó không lâu. Trong những tháng ngày hừng hực khí thế chiến đấu của quân dân Việt Nam yêu nước để dẫn tới ngày chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử, Lá đỏ một bài ca hào hùng đầy tin tưởng và hy vọng đã được ghi sâu vào trái tim mọi người.

Bài mẫu 4

Trong cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 có âm hưởng trầm hùng của những đoàn quân nối nhau ra trận, có sự góp mặt của những em gái tiền phương phơi phới tuổi xuân nơi chiến trường và đặc biệt là niềm tin tất thắng bất diệt trong triệu triệu trái tim Việt Nam. Bài thơ Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi với ngôn ngữ chân thật đã khắc họa rõ nét điều đó.

Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.

Chỉ với 8 câu thơ mà Nguyễn Đình Thi đã tái hiện cả một cuộc hành quân vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc – cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, tiến vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ là một bức tranh đẹp, là một bản nhạc trầm hùng trong lòng người ra trận.

Nhân vật trữ tình đã đứng ở trên cao của dải Trường Sơn, nơi có thể nhìn được bao quát cả dãy Trường Sơn hùng vĩ và cảm nhận được sức mạnh của dân tộc Việt Nam: Rừng lạ ào ào lá đỏ. Ở đây có sự liên tưởng giữa lá đỏ và đoàn quân. Lá đỏ hay chính những trái tim rực lửa căm thù đang ào ào ra trận?

Trường Sơn đại ngàn giữa mùa trở gió. Gió ào ạt thổi, trút lá đỏ rực trời. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn cuối, bước chân hành quân thần tốc của quân ta hối hả ra trận, bước chân đi mạnh mẽ, rung chuyển cả núi đồi, bụi đỏ bay mờ mịt nhòa trời lửa.

Đoàn quân và lá đỏ hòa lẫn trong nhau, nhòa trong khói lửa Trường Sơn, đó là hình ảnh được khắc họa có tính mỹ thuật rất cao, thể hiện sự tài hoa của nhà thơ. Với ngôn ngữ chân thực và nhịp thơ mạnh mẽ, những câu thơ giản dị của Nguyễn Đình Thi đã khắc họa một quang cảnh, một không khí thật hào hùng, kỳ vĩ, mang màu sắc sử thi.

Tuy nhiên, không chỉ có những bước chân hành quân thần tốc, Trường Sơn còn trở nên mềm mại bởi những em gái tiền phương đứng bên đường làm tiền tiêu cho bộ đội. Em đứng bên đường, như quê hương/Vai áo bạc quàng súng trường… Nhịp thơ đang mạnh mẽ bỗng dịu lại, câu thơ dài hơn (7 chữ) như càng khẳng định nỗi xúc động của người lính trên chiến trường.

Em là giao liên, em là TNXP và em chính là hình ảnh quê hương dịu hiền, gần gũi, thân thương, chính là nơi để trở về sau trận chiến này. Hình ảnh em gái tiền phương có thể đã rất nhiều người gặp và đi vào thơ ca, nhạc họa, nhưng cách ví của Nguyễn Đình Thi đã mang đến hiệu quả nghệ thuật độc đáo, nhắc mãi tới mai sau…

Chùng xuống một chút, rồi nhịp thơ lại trở về với giọng điệu hào sảng khi miêu tả bước chân đoàn quân ra trận với niềm tin tất thắng: Chào em, em gái tiền phương/Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.

Em gái tiền phương ở lại bên đường như điểm tựa niềm tin và đoàn quân ra đi mang theo hình ảnh dịu dàng, thân thương của quê hương, mang theo niềm tin tất thắng. Trong bước chân ào ào đó, ta như đã nhìn thấy ngày vui giữa Sài Gòn, đã thấy… nỗi mừng dâng mọi nỗi mừng/Trào vui nước mắt cứ rưng rưng (Tố Hữu). Lời chào, lời hẹn ấy sục sôi nhiệt huyết của tuổi trẻ, chứa đựng lý tưởng độc lập, tự do, dạt dào niềm lạc quan, tin tưởng vào ngày toàn thắng.

Tổ quốc đã hát bài ca thống nhất 48 năm, đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới nhưng những năm tháng chiến tranh khốc liệt thì chưa bao giờ phai nhòa, dẫu vết thương hôm nào đã lành theo năm tháng. Và những vần thơ vút lên từ cuộc chiến anh dũng đó luôn làm sống dậy trong chúng ta tình yêu Tổ quốc, sự biết ơn về những hy sinh cao cả của thế hệ trước.

Bài mẫu 5

Nguyễn Đình thi là nhà thơ miệt mài, cần cù trong suốt hành trình nghệ thuật của mình, hơn 60 năm cầm bút ông đã để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ thuộc nhiều loại hình khác nhau, song thơ là lĩnh vực ông dành nhiều tâm huyết nhất. Mỗi bài thơ của ông đều mang bản sắc riêng rõ nét, “Lá đỏ” là một điển hình, tiêu biểu cho cả nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn Đình Thi.

Bài thơ được sáng tác năm 1974, giai đoạn đất nước ta chuẩn bị tổng tiến công, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ có nội dung, cảm hứng chủ đạo là niềm tin vào sự chiến thắng của dân tộc. Tác phẩm như một lời dự cảm về ngày mai tươi sáng của đất nước, khi chúng ta đã giành được độc lập, tự do, hòa bình.

Chỉ với tám dòng thơ ngắn gọn nhưng súc tích, Nguyễn Đình Thi đã tái hiện cả một cuộc hành quân trường kì, vĩ đại của đất nước ta trong cuộc chiến tranh khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc. Đó là cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, bộ đội tiến vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam.

Bài thơ được viết khi nhà thơ được trực tiếp đến và trải nghiệm cuộc sống ở Trường Sơn – cũng là lí do cho những dòng viết chân thực và sống động trong thơ ông.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ:

“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ”

Có thể cảm nhận được vị trí nơi nhà thơ đứng là đỉnh Trường Sơn “cao lộng gió”, một nơi có thể phóng tầm mắt nhìn ra bao la, rộng lớn và bao quát. “Trên cao” còn có hàm ý về vị thế trong tư tưởng, tình cảm – tức cao quý, cao cả. Hai chữ “lộng gió” tựa như lòng người rộng mở, niềm tin phơi phới, đón chào những luồng gió Cách mạng.

Từ đỉnh núi, ông thấy được cảnh thiên nhiên đẹp lạ lùng: “Rừng lạ ào ào lá đỏ”. Từ láy “ào ào” được sử dụng độc đáo, gợi ra cảnh một cơn cuồng phong làm nên trận “mưa” lá đỏ tuôn trào, mãnh liệt như sức sống Trường Sơn. Màu đỏ của lá tựa như màu đó của lá cờ Tổ quốc, của dòng máu chảy trong mỗi trái tim người con đất Việt.

Hai câu thơ tiếp theo xuất hiện bóng dáng con người, hình ảnh thật đẹp trong cuộc chiến tranh nhân dân – “em gái tiền phương”, nữ chiến sĩ giao liên hay cô gái thanh niên xung phong:

“Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường.”

Sự có mặt của những cô gái trên đỉnh Trường Sơn đã góp phần tạo nên một thời kì huy hoàng của Tổ quốc, một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, trong đó có cả những cô gái trẻ trung, xinh đẹp mà lẽ ra được hưởng cuộc sống yên bình, hạnh phúc.

Hình ảnh những cô gái bên đường Trường Sơn gợi nhắc về hình ảnh những cô thanh niên xung phong trên cao điểm trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê). Có biết bao chàng trai, cô gái ngày đêm không ngừng nghỉ, thậm chí hi sinh cả tính mạng vì sự nghiệp của Tổ quốc, tất cả đã cùng làm nên những trang lịch sử chói lọi, làm nên “Đất Nước muôn đời”.

Hình ảnh “vai áo bạc, quàng súng trường” thật giản dị, thân thương. Đó là chứng tích sau biết bao tháng ngày dầm mưa dãi nắng; cũng là hình ảnh nổi bật giữa núi rừng Trường Sơn “ào ào lá đỏ”.

Trong những năm tháng máu lửa của thời kì kháng chiến chống Mỹ, Trường Sơn đã trở thành trận địa thiêng liêng:

“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”

Con đường hành quân đầy gian khổ, khốc liệt. Ta nhớ về hình ảnh con đường hành quân của những người lính Tây Tiến nơi núi rừng Tây Bắc: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”. Con đường càng đi như các thách thức ý chí của những người chiến sĩ. Song, đoàn quân “vẫn đi vội vã” với những bước chân hối hả, trùng điệp, rung chuyển đất trời: “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Câu thơ gợi khung cảnh hào hùng, không khí sử thi hào tráng ở những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh.

Những đoàn quân cứ thế, nối tiếp nhau không ngừng nghỉ, nhà thơ – chiến sĩ chỉ kịp ghi lại dáng hình quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp:

“Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.”

Sài Gòn – cái đích của cuộc hành quân, cuộc tiến công đã thật gần, con đường chạm tới chiến thắng, độc lập, tự do không còn xa. Lời chào, lời hẹn ước ấy chưa đựng biết bao nhiệt huyết của tuổi trẻ, khát khao, lý tưởng cao đẹp.

Không chỉ tạo ấn tượng sâu sắc về nội dung, bài thơ cũng mang những yếu tố hình thức nghệ thuật đặc sắc. Yếu tố chính làm nên thành công của bài là hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ thơ. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh sống động: lá đỏ, cô em gái tiền phương, đoàn quân – có sức gợi tả, khái quát cao cho vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam.

Về nhịp điệu, cơ bản xuyên suốt bài thơ là nhịp điệu của bước chân hành quân dồn dập, chắc khỏe. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi và chân thực, hình ảnh cuộc sống nơi chiến trường hiện lên tự nhiên, sống động.

Những cuộc kháng chiến đã qua đi, thời gian cũng dần phủ bụi nhưng kí ức về những năm tháng ấy có lẽ không bao giờ có thể xóa nhòa. Nhiều năm sau, độc giả vẫn sẽ nhớ về những năm tháng ấy, nhớ về tuyến đường Trường Sơn “ào ào lá đỏ”, nhớ hình ảnh những cô gái tiền phương, những chàng trai chiến sĩ với những bước đi rung chuyển đất trời.

(Nguồn: sưu tầm)


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 8 - Kết nối tri thức - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho 2K11 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí