Bài 8. Nghị luận xã hội - Văn mẫu 7 Cánh diều

Một nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam là lòng yêu nước qua bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta của Hồ Chí Minh.


Yêu nước là một nét đẹp truyền thống đáng tự hào của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 7 tất cả các môn - Cánh diều

Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên...

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

I. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh, tác phẩm Tinh thần yêu nước của nhân dân ta.

II. Thân bài

1. Nhận định chung về lòng yêu nước

- Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, nồng nàn, chân thành và luôn sục sôi.

- Tinh thần yêu nước ấy kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nõ lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước.

=> Gợi sức mạnh và khí thế mạnh mẽ của lòng yêu nước.

2. Những biểu hiện của lòng yêu nước

- Trong lịch sử, có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…

- Lòng yêu nước ngày nay của nhân dân ta:

+ Từ cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng, trẻ thơ…ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc.

+ Những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc.

+ Những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội.

+ Những phụ nữ khuyên chồng tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải.

+ Nam nữ nông dân và công nhân hăng hái tăng gia sản xuất.

+ Những đồng bào điền chủ quyên ruộng cho Chính phủ….

=> Tất cả những việc làm đó đều xuất phát từ lòng yêu nước.

3. Nhiệm vụ của nhân dân

Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến.

=> Cần phải thể hiện lòng yêu nước bằng những việc làm cụ thể.

III. Kết bài

Đánh giá về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Bài mẫu 1

Yêu nước là một nét đẹp truyền thống đáng tự hào của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Từ bao đời nay truyền thống ấy được con người Việt Nam và bạn bè thế giới ghi nhận. Một lần nữa, qua văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại giúp ta cảm nhận rõ ràng về truyền thống đó.

Mục đích của bài văn nghị luận là nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, một quan điểm nào đó. Với văn bản này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ một chân lí: Dân tộc ta, nhân dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn, là truyền thống quý báu từ bao đời truyền lại. Đây cũng là một văn bản nghị luận được coi là tiêu biểu, mẫu mực của kiểu bài chứng minh. Mở đầu bài văn, Hồ Chủ tịch đưa ra đánh giá khái quát “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta”. Và để người đọc, người nghe hiểu vấn đề đó một cách đầy đủ, cụ thể, chính xác, rõ ràng tác giả đã không dùng lí lẽ khô khan mà chọn, đưa ra những dẫn chứng tiêu biểu, đầy sức thuyết phục. Bắt đầu từ những trang lịch sử anh hùng chống giặc ngoại xâm của tổ tiên từ xa xưa khi Bà Trưng đánh quân Nam Hán, Bà Triệu đánh đuổi quân Ngô, Lê Lợi đánh quân Minh, Quang Trung tiêu diệt quân Thanh. Đến kháng chiến chống Pháp, được coi là thời điểm hiện tại khi mà Bác viết trong Báo cáo chính trị trong Đại hội Đảng toàn quốc lần II (năm 1951), Người lại đưa ra rất nhiều những việc làm tiêu biểu của nhân dân ta khắp vùng miền, không phân biệt lứa tuổi, giới tính, tôn giáo… Để rồi đi đến kết luận “Tất cả đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”. Để các dẫn chứng giàu sức thuyết phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng thủ pháp liệt kê, lặp cấu trúc cú pháp và đặt nó trong mô hình liên kết từ – đến. Bởi thế, lòng yêu nước của nhân dân ta đã được diễn tả, cảm nhận đầy đủ. Các dẫn chứng đó còn có một tác dụng nữa cũng không kém phần quan trọng là nó khơi dậy lòng tự hào dân tộc và ý thức, hành động để xứng đáng với tổ tiên. Điều hết sức cần trong hoàn cảnh hiện tại của đất nước, khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc đã bước sang thời kì phản công. Nhẹ nhàng mà sâu sắc, giản dị mà thấm thía, Người đã đem đến một bài học về sự tiếp nối và phát huy truyền thống yêu nước theo dòng chảy của thời gian của mạch nguồn của dân tộc. Đọc đến đây, hẳn mọi người sẽ không thể nào dửng dưng trước điều thiêng liêng ấy nữa, hẳn sẽ phải nghĩ về trách nhiệm, bổn phận của mỗi người với đất nước.

Rồi để cụ thể hóa tình yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dùng một hình ảnh so sánh độc đáo “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ quý giá. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm.”. Độc đáo mà vẫn gần gũi, dễ hiểu. Ý tưởng sâu sắc, mang tầm khái quát cao nhưng lời văn vẫn dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ vận dụng. Bởi thế, ai cũng có thể làm theo lời Bác, thực hành yêu nước trong những công việc cụ thể, hàng ngày như: học tập, lao động…

Không dài dòng, cầu kì, chỉ bằng lí lẽ giản dị, dẫn chứng cụ thể, phong phú nhưng văn bản vẫn rất giàu sức thuyết phục, văn bản đã làm sáng tỏ chân lí: Dân tộc ta yêu nước, đó là mọt truyền thống quý báu. Và điều quan trọng hơn, sâu sắc hơn, qua bài viết của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp ta cảm nhận tình yêu nước nồng nàn nơi Người và cả cuộc đời mình, Người đã sống cho tình yêu ấy. Lịch sử Việt Nam có thêm một dẫn chứng tiêu biểu về lòng yêu nước. Đúng hơn, Người đã ghi thêm vào những trang vàng lịch sử yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc một mốc son chói lọi. Ta không thể không tự hào về truyền thống quý báu đó của dân tộc và nghĩ đến trách nhiệm của mình – một công dân của đất nước thế kỉ XIX.

(Nguồn: Hoàng Thị Lâm Nho)

Bài mẫu 2

Nhân dân ta không chỉ giàu về tình nghĩa, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo,… mà còn có lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng. Lòng yêu nước trở thành một truyền thống đẹp đẽ, quý báu của nhân dân ta, nó được phát huy và thể hiện mạnh mẽ mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng. Truyền thống quý báu đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích: “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bài văn được trích trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Bài văn có thể coi là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn chứng của thể văn nghị luận.

Trước hết về nội dung, văn bản nêu lên luận đề cơ bản: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta”. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy được phát huy một cách mạnh mẽ. Trong câu văn tiếp theo tác giả đã sử dụng động từ với hình thức tăng tiến: lướt qua, nhấn chìm cùng với đó là hình ảnh so sánh tinh thần yêu nước như một làn sóng mạnh mẽ, đã cho thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta. Để làm sáng tỏ chân lí đó tác giả đã chứng minh nó ở hai thời điểm: quá khứ và hiện tại.

Bề dày lịch sử truyền thống yêu nước của nhân dân ta đã được tác giả đưa ra dẫn chứng cụ thể ở các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,… đây là những vị anh hùng của dân tộc. Lấy những dẫn chứng hết sức tiêu biểu, mỗi nhân vật lịch sử gắn liền với một chiến công hiển hách, vang dội đã làm cho người đọc thấy rõ tinh thần yêu nước của tổ tiên, ông cha.

Không dừng lại ở đó, để mở rộng luận điểm, làm người đọc tin và bị thuyết phục hơn nữa, tác giả tiếp tục lấy dẫn chứng đến thời điểm hiện tại. Ở đoạn thứ ba Hồ Chí Minh tập trung chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng hàng loạt các dẫn chứng. Sau câu chuyển đoạn “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” Hồ Chí Minh đã khái quát lòng yêu nước ghét giặc của nhân dân: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến nhân dân miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Tiếp đó bằng hình thức liệt kê, kết hợp với mô hình liên kết từ …đến Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ lòng yêu nước của mọi tầng lớp, lứa tuổi, giai cấp,… Những dẫn chứng đó vừa cụ thể vừa toàn diện, thể hiện sự cảm phục, ngưỡng mộ tinh thần yêu nước của đồng bào ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Phần cuối văn bản là lời khẳng định tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý, chúng có thể rõ ràng dễ thấy nhưng cũng có khi được “cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Lần đầu tiên, một thứ vô hình là lòng yêu nước lại được Bác cụ thể hóa, hữu hình hóa một cách vừa giản dị vừa cao quý đến như vậy. Qua lời của Bác, lòng yêu nước không phải những điều lớn lao, xa vời mà nó giản dị, ở ngay xung quanh ta. Nhiệm vụ của ta lại phải phát huy lòng yêu nước đó thành những hành động, việc làm cụ thể trong công việc kháng chiến, công việc yêu nước.

Về nghệ thuật, bài văn có bố cục chặt chẽ, gồm ba phần (phần một nêu lên vấn đề nghị luận “tinh thần yêu nước của nhân dân ta”; phần hai chứng minh tinh thần yêu nước trong quá khứ và hiện tại; phần ba nhiệm vụ của Đảng trong việc phát huy tinh thần yêu nước). Lập luận mạch lạc, rõ ràng, lí lẽ thống nhất với dẫn chứng. Dẫn chứng phong phú, cụ thể, được diễn đạt bằng những hình ảnh so sánh cụ thể, sinh động.

Bài văn đã làm sáng tỏ chân lí muôn đời của cha ông ta đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, sẵn sàng đấu tranh và hi sinh để giành tự do, độc lập cho dân tộc. Truyền thống đẹp đẽ đó cần phải được phát huy mạnh mẽ vào công cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.

Bài mẫu 3

Đoạn trích “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ một chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”.

Bài văn trích trong Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi từ năm 1951 đến năm 1976 của Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay).

Mở đầu đoạn trích, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhận định chung về tinh thần yêu nước: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta”. Đó là một lời khẳng định về truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tiếp theo với hình ảnh so sánh: “Tinh thần yêu nước ấy kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nõ lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Hồ Chí Minh đã cho thấy sức mạnh và khí thế của lòng yêu nước.

Và để tiếp tục minh chứng cho tinh thần yêu nước, Bác đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể, từ quá khứ đến hiện tại. Trong lịch sử, có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Họ đều là những tấm gương để thế hệ sau noi theo. Để rồi đến hiện tại, tinh thần yêu nước đó lại tiếp tục được phát huy. Từ cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng, trẻ thơ…ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc. Hay những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội. Cả những người phụ nữ khuyên chồng tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải. Rồi nam nữ nông dân và công nhân hăng hái tăng gia sản xuất. Ngay cả những đồng bào điền chủ quyên ruộng cho Chính phủ…. thế mới thấy tinh thần yêu nước không luôn tiềm ẩn trong mỗi con người, không phân biệt giới tính, tuổi tác hay nghề nghiệp, giai cấp.

Cuối cùng, Bác đã đưa ra nhiệm vụ dành cho nhân dân Việt Nam. Người đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý” để từ đó cho thấy tầm quan trọng của lòng yêu nước. Với vai trò như vậy, Bác yêu cầu mọi người cần “phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”. Có nghĩa là tinh thần yêu nước phải được thể hiện qua các hành động cụ thể, thiết thực.

Bài văn “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn chứng của thể văn nghị luận. Hồ Chủ tịch đã làm sáng tỏ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam như một truyền thống quý báu đáng gìn giữ muôn đời.

Bài mẫu 4

“Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” được trích trong “Báo cáo Chính trị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Qua đoạn trích này, tác giả đã làm sáng tỏ một chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”

Đầu tiên Hồ Chủ tịch đã đưa ra vấn đề nghị luận: “Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta…”. Qua đó Người muốn khẳng định truyền thống tốt đẹp lâu đời của dân tộc Việt Nam cũng như niềm tự hào về truyền thống đó. Tiếp tục, Hồ Chí Minh đã sử dụng một so sánh độc đáo - so sánh cái trừu tượng với cái cụ thể đó là “tinh thần yêu nước” với “một làn sóng vô cùng mạnh mẽ” có thể nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Từ đó, người đọc thấy được sức mạnh to lớn của tinh thần yêu nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tác giả Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh lòng yêu nước ở các cuộc chống ngoại xâm bởi nó được bộc lộ mạnh mẽ nhất, cụ thể nhất. Bác đã xuất phát từ đặc điểm lịch sử của dân tộc là luôn phải đối mặt với các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm nên rất cần đến lòng yêu nước và tinh thần xả thân vì nước. Trên thực tế, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải phát huy cao độ tinh thần thi đua yêu nước của toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiệt liệt biểu dương những gương sáng về lòng yêu nước. Đó là những tấm gương yêu nước sáng soi muôn đời của các vị anh hùng dân tộc nổi tiếng: “Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”. Nhưng không chỉ trong quá khứ mà còn là trong hiện tại: “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến, cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ…” Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.

Cuối cùng, Bác đã khẳng định lại nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam thông qua hình ảnh so sánh độc đáo để cho thấy tầm quan trọng của tinh thần yêu nước: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Bác đã thông qua hình ảnh so sánh đó để đặt ra trách nhiệm, bổn phận của nhân dân Việt Nam: “Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.

Như vậy, với bài văn này, Hồ Chủ tịch đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong lòng mỗi người dân. Truyền thống anh dũng, bất khuất là cơ sở vững chắc bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng. Ngày nay, bài văn trên vẫn còn nóng bỏng tính thời sự, có tác dụng động viên nhân dân Việt Nam vững bước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước thân yêu.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 7 - Cánh diều - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho 2K12 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí