Tết sale hết! Đồng giá 399K, 499K toàn bộ khoá học tại Tuyensinh247

Duy nhất từ 08-10/01

NHẬN ƯU ĐÃI
Xem chi tiết
Bài 6. Tình yêu tổ quốc

Tinh thần yêu nước trong bài thơ Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam)


Yêu nước và tự hào dân tộc là một trong những tình cảm thiêng liêng nhất của mỗi người dân Việt Nam.

Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Chân trời sáng tạo

Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu vài nét cơ bản về tác phẩm Nam quốc sơn hà.

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Tinh thần yêu nước trong bài thơ Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam).

2. Thân bài

* Lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền của đất nước: "Nam quốc... thiên thư" (Sông núi nước Nam... sách trời)

- Câu 1: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" (Sông núi nước Nam vua Nam ở)

+ Giọng thơ hào hùng, đanh thép => Mang ý nghĩa khẳng định nước Nam ta là một đất nước độc lập, có chủ quyền riêng, vua chính là đại diện tối cao cho dân tộc.

+ Cách sử dụng từ ngữ "quốc" (nước), "đế" (vua) => Niềm tự hào, tự tôn dân tộc, tự coi nước Nam là nước ngang hàng với nước Bắc, vua Nam sánh vai với hoàng đế Trung Quốc.

- Câu 2: "Tiệt nhiên định phận tại thiên thư" (Rành rành định phận tại sách trời)

+ Cách lập luận chặt chẽ, giọng điệu dứt khoát => Khẳng định đanh thép nước Nam là của người Nam, điều đó đã là chân lý, là trời định, đã được ghi rõ ràng ở sách trời không thể chối cãi.

* Tinh thần yêu nước với ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc: "Như hà... bại hư" (Cớ sao... tơi bời)

- Câu 3: Hình thức là câu hỏi trực tiếp quân giặc "Cớ sao chúng bay sang xâm phạm?" => Thái độ quyết liệt, rõ ràng coi kẻ xâm lược là "nghịch lỗ" (giặc  dữ) chỉ rõ sự phi lí, phi nghĩa trong hành động xâm lược của kẻ thù.

- Câu 4: Khơi gợi tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm của mỗi người dân nước Nam "Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" => Kẻ thù ngang ngược, làm trái sách trời sẽ khiến chúng tự chuốc lấy bại vong.

=> Lời cảnh cáo đanh thép vang lên khẳng định giặc sẽ thất bại thảm hại, ta sẽ giành chiến thắng.

3. Kết bài

- Khẳng định lại tinh thần yêu nước trong Nam quốc sơn hà.

- Nêu nhận xét, đánh giá của bản thân về giá trị của tác phẩm.

Bài mẫu 1

      Yêu nước và tự hào dân tộc là một trong những tình cảm thiêng liêng nhất của mỗi người dân Việt Nam. Tình cảm ấy thấm đẫm trong tâm hồn dân tộc và dạt dào lai láng trên những trang thơ văn. Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam) là một áng thơ như thế!

      Sông núi nước Nam không phải là sáng tác duy nhất thời Lý -Trần khơi nguồn từ cảm xúc về đất nước, về dân tộc. Gắn bó với một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt - thời đại hào hùng đấu tranh chống ngoại xâm, dường như đất nước và dân tộc là mối quan tâm hàng đầu của các nhà văn, nhà thơ. Và do đó, tình cảm yêu nước và tự hào dân tộc đã trở thành cảm hứng chủ đạo cho các sáng tác văn chương thời kì này.

      Nhìn lại các sáng tác thời Lý - Trần, tuy tình cảm đất nước bộc lộ ở những khía cạnh khác nhau, trong những thời điểm khác nhau, nhưng đều rất sâu sắc. Trong Chiếu dời đô, nỗi lo lắng cho vận số của đất nước, dân tộc, hạnh phúc của muôn dân, trăm họ là niềm trăn trở lớn nhất của vị hoàng đế đầu tiên của triều Lý. Ở Hịch tướng sĩ, lòng căm thù giặc, nỗi xót đau trước cảnh đất nước bị giày xéo tàn phá, ý chí sẵn sàng xả thân vì nước trào dâng mãnh liệt trong lòng vị thân vương họ Trần. Còn trong Phò giá về kinh, lại là hào khí chiến thắng của dân tộc và khát vọng về một nền thái bình muôn thuở cho đất nước của thượng tướng thái sư Trần Quang Khải.

      Ra đời trong máu lửa của cuộc kháng chiến chống Tống, Sông núi nước Nam là tuyên ngôn của Đại Việt về độc lập, chủ quyền đất nước. Đây là tuyên ngôn của hàng triệu trái tim Đại Việt nồng nàn, thiết tha yêu nước mình.

      Ta hãy đọc kỹ lại bản tuyên ngôn để cảm nhận được tình cảm mãnh liệt, sục sôi của một dân tộc:

Nam Quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

 Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

      Dịch:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

 Chúng bay nhất định phải tan vỡ.

(Theo Lê Thước và Nam Trân dịch)

      Sông núi nước Nam là của người Nam, đó là tư tưởng của hai câu thơ đầu của bài thơ. Tư tưởng này đối với chúng ta ngày nay tự nhiên như cơm ăn, nước uống. Nhưng ngày ấy, cái thời mà bọn phong kiến phương Bắc đã từng biến nước ta thành quận huyện và đang cố sức khôi phục lại địa vị thống trị, thì tư tưởng ấy mới thực sự thiêng liêng và có ý nghĩa biết chừng nào! Lòng tự tôn dân tộc hun đúc qua mấy mươi thế kỷ đã hoá thành tư thế đứng thẳng làm người, mặt đối mặt với kẻ thù. Đọc câu thơ, lòng ta không khỏi rưng rưng xúc động.

      Nếu nhìn từ góc độ nguyên tác Hán tự, ta thật kinh ngạc. Câu thơ như một làn roi quất thẳng vào bộ mặt bá vương hợm hĩnh của triều đình phong kiến Trung Quốc - kẻ đang phát động chiến tranh xâm lược để thực hiện mưu đồ bá chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử bành trướng, chúng gặp phải ý chí quật cường đến thế, một tinh thần khẳng khái đến thế! Chúng đã có Bắc Quốc (Trung Quốc) thì ta cũng có Nam Quốc chúng có Bắc đế thì ta cũng có Nam đế; nào có thua kém gì nhau! Từ ngôn từ và ý thơ thế hiện một niềm tự hào cao độ về đất nước và dân tộc mình. Đây là niềm tự hào mà mỗi thần dân Đại Việt đều có trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù.

      Lòng tự hào ấy, hơn ba thế kỷ sau được Nguyễn Trãi nhấn mạnh thêm:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

(Bình Ngô đại cáo)

      Như vậy ý thức độc lập tự chủ đâu phải là mới thai nghén

      Hôm nay, nó đã hình thành từ rất lâu trong tiềm thức của mỗi người dân đất Việt, có lẽ là từ thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang. Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, qua rất nhiều biến cố đau thương, nhưng ý chí độc lập không bao giờ bị dập tắt. Máu xương của cha ông đã đổ mấy ngàn năm chẳng phải là để giành lại xã tắc đó sao? Ngày hôm nay, một lần nữa, tinh thần dó được phát biểu thành một tuyên ngôn hùng hồn, đanh thép. Hơn nữa, là niềm tin sắt đá vào sự thắng lợi tất yếu của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

(Giặc dữ cớ sao phạm tới đây

Chúng bay nhất định phải tan vỡ).

      Dám đánh và quyết tâm đánh thắng giặc thù. Đó chính là biểu hiện tập trung nhất, cao độ nhất của lòng yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

      Sau này, trong văn chương nước nhà, ta còn bắt gặp không ít những áng thơ văn dạt dào sâu lắng tình yêu quê hương đất nước mình như thế trong đó Sông núi nước Nam mãi xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

Bài mẫu 2

Tình yêu quê hương và niềm tự hào dân tộc là những cảm xúc trang trọng trong lòng người Việt. Tình yêu này không chỉ ẩn chứa sâu trong lòng mà còn được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm văn học.

Sông núi và biển Đông không chỉ là nguồn cảm hứng duy nhất của thời kỳ Lí-Trần, mà còn kết hợp với bối cảnh lịch sử đầy bi kịch - những năm tháng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Đất nước và dân tộc trở thành trọng tâm trong lòng các nhà văn và nhà thơ. Chính những cảm xúc này đã thúc đẩy các tác phẩm nghệ thuật của thời đại.

Trong các tác phẩm của thời Lí-Trần, tình yêu quê hương được thể hiện một cách rất đa dạng và sâu lắng. Trong "Chiếu dời đô", nỗi lo sợ cho dân tộc và dân chúng là mối quan tâm hàng đầu của hoàng đế Lí đầu tiên. Trong "Hịch tướng sĩ", sự tức giận và đau lòng trước viễn cảnh quê hương bị đánh chiếm làm tan vỡ trái tim của các vị thân vương Trần. Trong khi "Phò giá về kinh" phản ánh lòng kiên định và khao khát thời bình của thượng tướng Trần Quang Khải.

"Sông núi nước Nam", ra đời từ cuộc chiến tranh chống lại nhà Tống, là biểu tượng cho sự kiên định và lòng trung thành của người Việt, thể hiện tình yêu mãnh liệt dành cho quê hương và dân tộc.

Hãy đọc kỹ lại tuyên ngôn để hiểu rõ hơn về tình cảm mạnh mẽ và sục sôi của một dân tộc:

Nam Quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Sông núi nước Nam thuộc về những con người phương Nam, điều này được thể hiện rõ trong hai dòng đầu tiên của bài thơ. Ngày nay, tư tưởng này dường như tự nhiên như hơi thở, không thể thiếu như bữa cơm hay giọt nước uống. Tuy nhiên, trong thời kỳ xa xưa, khi phong kiến Bắc đã biến đất nước chúng ta thành quận huyện và đang cố gắng khôi phục sự thống trị, tư tưởng ấy mới thực sự trở nên thiêng liêng và mang ý nghĩa sâu sắc! Tình yêu tự hào dân tộc đã được bền chặt qua hàng thế kỷ, biến thành tư thế đứng thẳng, mặt đối diện với kẻ thù. Đọc những câu thơ này, lòng ta không khỏi xúc động và rưng rưng.

Nếu nhìn từ góc độ Hán tự nguyên bản, ta thấy sự kinh ngạc. Câu thơ giống như một đòn roi đập thẳng vào quyền lực độc đoán của triều đình phong kiến Trung Quốc, những kẻ đang tiến hành chiến tranh xâm lược để thực hiện ý đồ bá chủ. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, họ phải đối mặt với ý chí mạnh mẽ đến vậy, một tinh thần kiên quyết đến như vậy! Họ có Bắc Quốc (Trung Quốc), thì chúng ta cũng có Nam Quốc; họ có Bắc đế, thì chúng ta cũng có Nam đế - không có sự thua kém nào! Ngôn từ và tinh thần thể hiện niềm tự hào cao quý về đất nước và dân tộc, là niềm tự hào mà mỗi người dân Đại Việt đều nuôi dưỡng trong cuộc chiến sinh tử với kẻ thù.

Bài mẫu 3

Trong văn học truyền thống của dân tộc, có nhiều tác phẩm văn xuất sắc thể hiện lòng yêu nước và tự hào dân tộc của các tiền bối, trong đó không thể không nhắc đến bài thơ hùng ca bi tráng “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt, hay còn gọi là “Sông núi nước Nam”. Tác phẩm này là biểu hiện của tinh hoa văn hóa, lòng dũng cảm anh hùng, và sự tự hào dân tộc cũng như tình yêu nước trong quá trình xây dựng và bảo vệ quốc gia. "Nam quốc sơn hà" được sáng tác bằng thể thất ngôn tứ tuyệt, sử dụng chữ Hán, mang đến một vẻ đẹp ngôn ngữ trang trọng và hùng vĩ.

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực từ phương Bắc, như giặc Oa, giặc Hán, giặc Tống và giặc Thanh, đã ghi dấu ấn lịch sử sâu sắc. Bài thơ "Nam quốc sơn hà" ra đời trong thời gian chiến đấu chống lại quân Tống và được sáng tác tại đền thờ thần trên bờ sông Như Nguyệt. Bản thơ phản ánh tinh thần mạnh mẽ và quyết tâm kiên cường của dân tộc. Ngay từ đoạn mở đầu, tác phẩm đã thể hiện sự quyết tâm vững chắc với một lời tuyên ngôn đầy kiên định:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư”

Câu thơ với cấu trúc hai vế rõ ràng, tác giả đã chọn từ ngữ sâu lắng và đầy ý nghĩa, với một giọng điệu mạnh mẽ, khẳng định sự chủ quyền của đất nước. "Nam quốc" và "Nam đế" là những từ then chốt của câu thơ, khi mà giặc từ phương Bắc thường xem thường chúng ta, chỉ coi Bắc là trung tâm thống trị thế giới. Họ liên tục xâm lược, chiếm đóng và ép buộc nước ta phải phục vụ họ. Trong suốt lịch sử, nhân dân ta đã không mệt mỏi đấu tranh, bảo vệ quyền tự do và độc lập của mình.

"Nam quốc" không chỉ đề cập đến nước ta mà còn biểu thị cho sự tự do và chủ quyền của đất nước. Tác giả khẳng định rằng, chúng ta có thể sánh vai với các quốc gia phương Bắc, và vị vua của chúng ta cũng có uy quyền như họ. Điều này phản ánh tinh thần yêu nước, lòng tự trọng và niềm tự hào dân tộc của chúng ta.

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Câu thơ đưa ra một lập trường kiên định, tuyên bố rằng "sông núi nước Nam" là của người dân Nam, điều này là điều không thể chối cãi và đã được thượng đế quyết định. Dù có bất kỳ sức mạnh hay cá nhân nào cố gắng phủ nhận, nhưng cảnh quan, từng bụi cây, mỗi dòng sông đều chứng minh sự chủ quyền của nhân dân ta, đã được ghi nhận từ thời cổ đại và được thể hiện trong tầm nhìn toàn cầu. Điều này là không thể thay đổi!

Bằng hai câu thơ đầy sức mạnh và lập luận, tác giả đưa ra một chân lý rằng: nước Đại Việt tự lập và sở hữu chủ quyền của một quốc gia, và không ai có quyền can thiệp hoặc thay đổi điều này. Để tôn vinh và nhấn mạnh vị thế này, tác giả đã sử dụng ngôn từ sắc bén và quyết đoán trong hai câu thơ của mình:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Sách trời đã ghi chép rõ ràng về tính chủ quyền, vậy tại sao bọn giặc lại dám mưu toan xâm lược? Câu hỏi đó như một lời nhắc nhở đầy đanh thép, đối với quân xâm lược, rằng hành động của chúng là sự xâm phạm không chỉ đối với vùng đất Nam quốc mà còn là đại nghịch bất đạo. Chúng xâm phạm chủ quyền của cả một dân tộc, động đến lòng tự tôn của một dân tộc kiên cường, ý chí độc lập và chủ quyền ngút ngàn. Nếu chúng mà dám tiến vào bờ cõi ấy, thì điều chắc chắn là thất bại đang chờ đợi, là điều hiển nhiên và không thể tránh khỏi. Họ sẽ đối đầu không chỉ với sức mạnh của trời đất, mà còn với ý chí và tinh thần bất khuất của nhân dân Nam quốc, và chắc chắn sẽ phải chịu thất bại, cúi đầu trước sức mạnh và quyết tâm không khuất phục.

Bài mẫu 4

“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu cả ta” (trích “Lòng yêu nước của nhân dân ta”- Hồ Chí Minh). Bác Hồ đã nêu bật niềm kiêu hãnh về tình yêu nước là nét đặc trưng không thể tách rời trong lịch sử dân tộc. Kể từ khi bài thơ “Nam quốc sơn hà” xuất hiện vào cuối năm 1076 - biểu tượng cho sự độc lập đầu tiên của chúng ta, lòng yêu nước đã được khắc ghi mạnh mẽ qua mỗi trang sử vinh quang của đất nước:

“Nam Quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Hai dòng thơ đầu tiên đã trình bày một chân lý: Sông núi nước Nam là của người Nam. Trong bản gốc chữ Hán, tư tưởng này được nhấn mạnh một cách sâu sắc và mãnh liệt: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư." Câu thơ như một tuyên ngôn vững chắc về chủ quyền dân tộc: "Nam quốc" - "Nam đế", nơi đất Nam thuộc về vua Nam, được đặt trong sự so sánh với phương Bắc: "Nam quốc" - "Bắc quốc" và "Nam đế" - "Bắc đế". Trong trường hợp quân Tống xâm lược, như một quốc gia mạnh mẽ, thì nước Nam chúng ta sẽ bảo vệ mỗi tảng đất của mình như một quốc gia độc lập.

Điều này được củng cố bởi "thiên thư": "Vằng vặc sách trời chia xứ sở", chỉ rõ rằng điều này tồn tại như một chân lý hiển nhiên mà không ai có thể phủ nhận. Dựa vào hai dòng thơ đầu, chúng ta có thể thấy rõ tinh thần yêu nước qua quan điểm về chủ quyền dân tộc và ý thức độc lập tự chủ.

Ở hai dòng thơ tiếp theo, tinh thần yêu nước hiện lên rõ nét thông qua niềm tin mạnh mẽ vào sự chiến thắng tất yếu trong cuộc chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Sự tin tưởng kiên định vào chiến thắng trước kẻ thù xâm lược chính là biểu đạt cao nhất của tinh thần yêu nước. Tác phẩm đã mô tả trước mắt độc giả hình ảnh thất bại nặng nề của giặc Tống trong cuộc xâm lược, song cũng phản ánh lòng tin không lay động vào tinh thần yêu nước mạnh mẽ của nhân dân chúng ta. Giặc Tống chắc chắn sẽ "phải bị tiêu diệt" do đã xâm phạm vào "thiên địa", phá vỡ nguyên tắc cơ bản, khởi xướng cuộc chiến phi đạo đức. Thất bại của chúng không thể tránh khỏi bởi đã dám chạm mặt xâm lược vào lãnh thổ nước Nam, nơi mà từ lâu thuộc về dân tộc Nam. Sức mạnh về tinh thần yêu nước của thời kỳ Đông Á sẽ phá hủy mọi ý đồ của chúng.

“Nam quốc sơn hà” thật sự là một tác phẩm văn học kỳ vĩ, là biểu ngữ đầu tiên về lòng yêu nước và ý thức tự chủ, cùng niềm tin rất lớn vào sự thành công của dân tộc.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 8 - Chân trời sáng tạo - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho 2K11 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí

>> Học trực tuyến lớp 8 trên Tuyensinh247.com Đầy đủ khoá học các bộ sách (Kết nối tri thức với cuộc sống; Chân trời sáng tạo; Cánh diều). Cam kết giúp học sinh lớp 8 học tốt, hoàn trả học phí nếu học không hiệu quả.