Giải bài tập Phiếu học tập số 1 trang 90 vở thực hành ngữ văn 8>
Đọc văn bản Chiều hôm nhớ nhà (Bà Huyện Thanh Quan) và thực hiện các yêu cầu
Câu 1
Bài tập 1 (trang 90, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Đọc văn bản Chiều hôm nhớ nhà (Bà Huyện Thanh Quan) và thực hiện các yêu cầu.
Khoanh tròn phương án đúng
Câu 1. A B C D
Câu 2. A B C D
Câu 3. A B C D
Câu 4. A B C D
Câu 5. A B C D
Câu 6. A B C D
Điền nội dung phù hợp
Câu 1. Cơ sở để có thể khẳng định Chiều hôm nhớ nhà là một bài thơ trữ tình
Câu 2. Những hình ảnh trong bài thơ có tác dụng làm nổi bật nhan đề Chiều hôm nhớ nhà
Câu 3. Cảm nhận về phong cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt được khắc họa trong bài thơ:
- Về phong cảnh thiên nhiên:
- Về cảnh sinh hoạt:
Câu 4. Tâm trạng của tác giả thể hiện trong bài thơ
Câu 5. Nhận xét về cách dùng từ ngữ của tác giả trong bài thơ
Phương pháp giải:
Đọc dữ liệu trong SGK và trả lời
Lời giải chi tiết:
Khoanh tròn phương án đúng
Câu 1. A
Câu 2. C
Câu 3. C
Câu 4. B
Câu 5. C
Câu 6. B
Điền nội dung phù hợp
Câu 1. Cơ sở để có thể khẳng định Chiều hôm nhớ nhà là một bài thơ trữ tình:
- Nhan đề bài thơ
- Cảnh vật in đậm dấu ấn tâm trạng của con người
- Lời thổ lộ tâm tình ở hai câu kết của bài thơ
Câu 2. Những hình ảnh trong bài thơ có tác dụng làm nổi bật nhan đề Chiều hôm nhớ nhà:
- Bóng hoàng hồn trên nền trời chiều
- Những âm thanh báo hiệu một ngày tàn (tiếng tù và, tiếng trống dồn)
- Sinh hoạt của con người vào thời điểm cuối ngày (người đánh cá và trẻ chân trâu đều đang trên đường về nhà sau một ngày làm việc)
- Người đi trên đường xa đang nhớ về quê nhà, mong có người để chia sẻ nỗi niềm
Câu 3. Cảm nhận về phong cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt được khắc họa trong bài thơ:
- Về phong cảnh thiên nhiên: hiện ra vào thời điểm buổi chiều tà, không gian khoáng đạt nhưng đượm vẻ tiêu sơ, hoang vắng
- Về cảnh sinh hoạt: diễn ra vào thời điểm cuối ngày, nơi trở về là bến xa, thôn vắng. Đặc biệt, chủ thể trữ tình – hình ảnh trung tâm của bài thơ – đang bơ vơ trên đường xa vắng, trông về quê nhà với bao nhớ nhung
Câu 4. Tâm trạng của tác giả thể hiện trong bài thơ: nỗi niềm cô quạnh, nhớ nhung của một “lữ khách” đang “bước dồn” trên những “dặm liễu” dưới “sương sa”
Câu 5. Nhận xét về cách dùng từ ngữ của tác giả trong bài thơ: mật độ dày đặc của từ ngữ Hán Việt là một đặc điểm nổi bật trong cách sử dụng từ ngữ của Bà Huyện Thanh Quan.
Câu 2
Bài tập 2 (trang 91, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Viết đoạn văn (khoảng 10 – 15 câu) phân tích cảnh và tình trong bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ bài thơ và viết đoạn văn phân tích theo yêu cầu.
Lời giải chi tiết:
Đọc thơ của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ thật thanh cao đượm sự cô đơn, trống vắng. Một trong những bài thơ đó là tác phẩm Chiều hôm nhớ nhà. Ở hai câu đề, khoảng thời gian là trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn. Ánh sáng vẫn còn đó, nhưng chỉ còn là ánh lờ mờ của ngày tàn và đêm sắp tới. Câu thơ chỉ giới thiệu thời gian mà người đọc như cảm thấy cả không gian một vùng quê rộng lớn. Trước thiên nhiên ấy, giữa trời và đất, có một cái gì đó tràn ngập con người nhạy cảm. Buổi chiều là thời gian dễ buồn nhất và đó cũng là khoảng thời gian thường xuất hiện trong thơ của bà Huyện Thanh Quan. Con người trong cuộc sống hỗn độn, ồn ào vẫn có một lúc nào đó trở về với cái bình yên muôn thuở của thiên nhiên, về với chính lòng mình. Âm thanh từ xa vẳng đến như thúc giục, nhưng vẫn có cái trầm lặng trong đó báo hiệu cho mọi người: ngày sắp hết. Tâm trạng của tác giả đã phần nào được ngầm hiểu trong cách lựa chọn thời gian, không khí và thanh âm. Câu thơ với nhịp 2/5 làm cho ta có cảm giác hoạt động con người đang giảm dần, đang đi tới kết thúc. Phép đối rất chuẩn cùng với những từ Hán Việt đã góp phần tạo nên vẻ trang nhã, cổ kính của hai câu thơ gợi tả này. Trước cảnh thiên nhiên to lớn, con người thật nhỏ, yếu thế và có phần đơn độc. Và con đường trước mắt bà thì sao, hai câu luận đã vẽ ra khung cảnh khoảng đường trước mắt như vô tận. Chim bay mỏi mà chưa tới nơi, khách bước dồn mà chưa tới chốn. Con đường đi hay con đường đời đang dàn trải? Phép đối từng cặp hình ảnh ngàn mây dặm liễu, gió cuốn - sương sa, chim bay mỏi - khách bước dồn làm ý thêm nhấn mạnh. Những từ ngữ bước dồn, bay mỏi cho thấy tâm trạng chán chường, mỏi mệt của nhà thơ. Tâm trạng ấy tất dẫn đến hai câu thơ kết thúc. Không có ai để tâm sự, trời đất thì bao la, vắng lặng, trống trải, khiến tác giả quay về với nội tâm, với lòng buồn sẵn có của mình. Câu thơ cuối, vừa như một câu cảm, vừa như một câu hỏi. Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi đưa đến cho chúng ta những cảm xúc chân thành, đậm đà trước nét buồn thanh tao, đưa đến những suy nghĩ sâu xa hơn về con người và xã hội. Một bài thơ đóng lại nhưng còn mở ra, tạo nên một dư âm trong lòng người đọc.
Câu 3
Bài tập 3 (trang 92, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Chuẩn bị nội dung để thảo luận về đề tài: Giữ gìn tiếng nói của cha ông phải chăng cũng là một cách thể hiện lòng yêu nước?
Phương pháp giải:
a. Chuẩn bị nội dung để thảo luận về đề tài trên.
b. Tập luyện thảo luận trên cơ sở các nội dung đã chuẩn bị.
Lời giải chi tiết:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Thế nhưng, hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói, chữ viết nước ngoài, thì sự trong sáng của tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực.
Đáng quan tâm nhất là sự lai căng tiếng nói, chữ viết của nước ngoài ngày một tăng. Dường như ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ, khi nói và viết tiếng Việt thường chen tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh. Tất nhiên, cũng phải thừa nhận rằng trong sự phát triển mau lẹ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin, nhiều thuật ngữ mới ra đời mà chưa có trong tiếng Việt, nên phải dùng những thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài khi nói và viết tiếng Việt như Internet, trang web…, song đáng chê trách nhất vẫn là việc dùng chữ viết nước ngoài (chủ yếu là chữ Anh) thay cho chữ Việt vốn đã có sẵn, đủ nghĩa, dễ hiểu, trong sáng như show (biểu diễn), live-show (biểu diễn trực tiếp), nhạc classic (nhạc cổ điển), nhạc country (nhạc đồng quê), nhạc dance (nhạc nhảy), các fan (người hâm mộ)… một cách tự nhiên như thể đó là những từ tiếng Việt mà ai cũng hiểu.
Có ý kiến ngụy biện cho rằng hiện tượng này nên khuyến khích vì đấy là một cách học và thực hành tiếng Anh, một công cụ không thể thiếu để hội nhập quốc tế. Nhưng thực ra, muốn thực hành ngoại ngữ, chúng ta hoàn toàn có thể nói, viết hẳn bằng tiếng nước ngoài mà mình học ở các lớp học ngoại ngữ, các lớp đại học dạy bằng tiếng nước ngoài, hoặc tạo cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài ở Việt Nam… Còn khi nói và viết tiếng Việt thì tránh dùng tiếng lai, trừ trường hợp bất đắc dĩ. Các cụ xưa gọi người sính dùng chữ gốc Hán là người “hay chữ lỏng” và có câu nói “dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng”.
Hồi nước ta còn thuộc Pháp, thói quen dùng chen tiếng Pháp cũng khá phổ biến và được gọi là nói “tiếng lai”. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, phong trào cứu quốc, nâng cao tinh thần dân tộc thôi thúc sinh viên, học sinh từ bỏ cách nói chen tiếng Pháp. Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng trước đây thường tự mình nêu gương sáng và thường nhắc nhở mọi người tránh bệnh nói chữ, sính dùng từ gốc Hán khi có thể diễn đạt bằng tiếng Việt. Ví dụ như vì sao báo chí, hay thậm chí cả trong văn bản chính thức của nhà nước, thường dùng cụm từ “người tham gia giao thông” thay cho “người đi đường”?
Thực tế, người dân không bao giờ sử dụng từ “tham gia giao thông”. Người ta thường dặn dò nhau “đi đường phải cẩn thận” chứ chẳng ai nói “tham gia giao thông phải cẩn thận” bao giờ! Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt theo tấm gương Bác Hồ, Nhà nước nên có quy định chặt chẽ và Viện Ngôn ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng từ tiếng nước ngoài trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của Nhà nước. Các trường học cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Loại trừ sự lố bịch trong việc dùng tiếng lai cũng là một khía cạnh thể hiện niềm tự hào và tôn trọng ý thức dân tộc trong ngôn ngữ, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
- Giải bài tập Phiếu học tập số 1 trang 92 vở thực hành ngữ văn 8
- Giải bài tập Ôn tập học kì 1 trang 84 vở thực hành ngữ văn 8
- Giải bài tập Thực hành đọc mở rộng trang 82 vở thực hành ngữ văn 8
- Giải bài tập Thực hành củng cố, mở rộng trang 80 vở thực hành ngữ văn 8
- Giải bài tập Thực hành nói và nghe trang 79 vở thực hành ngữ văn 8
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 8 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Giải bài tập Luyện tập tổng hợp trang 95 vở thực hành ngữ văn 8 tập 2
- Giải bài tập Ôn tập kiến thức trang 89 vở thực hành ngữ văn 8 tập 2
- Giải bài tập Thực hành nói và nghe trang 87 vở thực hành ngữ văn 8 tập 2
- Giải bài tập Thực hành viết trang 85 vở thực hành ngữ văn 8 tập 2
- Giải bài tập Đọc để đồng hành và chia sẻ trang 83 vở thực hành ngữ văn 8
- Giải bài tập Luyện tập tổng hợp trang 95 vở thực hành ngữ văn 8 tập 2
- Giải bài tập Ôn tập kiến thức trang 89 vở thực hành ngữ văn 8 tập 2
- Giải bài tập Thực hành nói và nghe trang 87 vở thực hành ngữ văn 8 tập 2
- Giải bài tập Thực hành viết trang 85 vở thực hành ngữ văn 8 tập 2
- Giải bài tập Đọc để đồng hành và chia sẻ trang 83 vở thực hành ngữ văn 8