Đề thi giữa kì 1 Ngữ Văn 12 - Chân trời sáng tạo

Đề thi giữa kì 1 Văn 12 Chân trời sáng tạo - Đề số 6

Tải về

Đề thi giữa kì 1 Văn 12 bộ sách chân trời sáng tạo đề số 6 được biên soạn theo hình thức trắc nghiệm và tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

Tổng hợp đề thi giữa kì 1 lớp 12 tất cả các môn - Chân trời sáng tạo

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Đề thi

ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ I

Môn: Ngữ văn lớp 12

Thời gian làm bài: 90 phút - Không kể thời gian phát đề

 

Phần I. Đọc hiểu (4,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau:

AM CU LY XE

                         -Thanh Tịnh-

Mới nghe qua tên am[1], tôi đã tưởng họ bông đùa. Nhưng không, người kể cho tôi nghe nói với giọng nghiêm chỉnh lắm. Cái am ấy nhỏ bằng vôi dựng trên bờ sông Bồ thuộc về làng Thanh Trúc. Trong am chỉ đặt một bát lư hương và cặp đòn con bằng gỗ tiện. Trước cửa am có che một bức sáo xanh kẻ chữ thọ màu hồng. Cách am năm bước có cái mồ đắp lên cao. Ngôi mả của người cu-ly[2] xe.

Chuyện am này ở hai vùng Thanh Lương và Hương Cần ai cũng biết. Họ thường kể cho người lạ nghe với một giọng chắc chắn đáng tin. Ðược dịp kể nhiều nhất là bà bán quán gần am đấy. Và khách qua lại muốn được nghe chuyện chỉ việc uống một bát nước chè hay ăn vài đĩa xôi đậu. Bà quán kể lâu quá thành có duyên và lắm đoạn nghe xuôi như đọc thuộc lòng.

Ga Văn Xá làm lễ lạc thành[3] xong thì sau đó hai tuần một người mù đem chiếc xe tay đến đón khách. Ðó là một cái xe thảm khổ nhất. Ruột hai bánh độn rơm và trần xe đã thủng nhiều chỗ. Khổ hơn nữa là người kéo xe mù lại già, đầu tóc bạc phơ, người gầy gò và trán hói. Theo đúng đường và biết tránh người đi là nhờ đứa cháu nội lên mười chạy dìu phía trước. Rồi ngày bốn buổi, hai ông cháu lên ga Văn Xá đón khách về huyện Quảng Ðiền. Ðời tuy vất vả nhưng có kẻ thương tình nên cũng đủ sống. Lệ thường cứ mỗi vòng được năm xu. Hai ông cháu ngày nào cũng kiếm được một vài hào đủ tiêu dùng, cơm cháo.

[...] Từ ngày có xe lửa, dân mấy vùng quê ai cũng thèm đi. Họ cốt đi để mua vui thôi. Ði bộ đối với họ lúc ấy là một chuyện phiền. Nhưng được người kéo xe khỏe mạnh thì chẳng nói gì. Ðằng này lại khác. Bước chân lên xe người mù già, thì người khổ chưa hẳn là người phải kéo xe mà thật ra là người được ngồi. Huống chi ở đây lại phải chịu cái tội trông một đứa trẻ chạy không kịp thở, ngã tới vờn lui, theo bước chân của một ông già yếu đuối. Nên nhiều người thương hại không muốn đi xe. Nhưng lòng nhân đạo càng ban truyền ra, người kéo xe mù lại càng túng thiếu. Rồi sau chỉ những người ốm hay già yếu lắm - thỉnh thoảng có vài người say rượu - mới bước lên xe của hai ông cháu. Lắm người không đi, chỉ gửi vài bao hành lý họ cũng trả tiền hẳn hoi. Nhưng hạng người này hiếm lắm. Ðợi năm sáu chuyến tàu mới gặp được một người.

Tối đến, hai ông cháu thường ngủ trong một cái mui thuyền đặt khum khum trên bờ sông. Sáng mai ba giờ đã phải dậy. Vì phải đợi khách bên huyện Quảng qua sông đi chuyến tàu bốn giờ.

[...]Xe độ ấy ế vô cùng. Và gặp cái xe trần thủng, nước tát vào như dội, khách cũng thấy chán không buồn đi. Và đêm nào lên ga đợi chuyến tàu suốt chín giờ, hai ông cháu cũng dẫn xe về không.

[...]Một đêm trung tuần tháng chạp, chuyến xe suốt lại trễ mất ba giờ. Lúc ấy, vào giữa đêm. Nghe tàu đến, hai ông cháu đã mừng thầm trong bụng. Một lát sau, con tàu đã bắt đầu sục sịch chạy, người kéo xe vẫn chưa nhận thấy có tiếng bước chân nào khỏi ga. Ông hỏi cháu nhưng thằng bé đã lẩn đi ngả nào, ông chắc nó đang đứng đón khách ở sân ga nên định bụng chờ. Mấy phút sau, đứa bé trở về, ông già mù cảm thấy hình như có một người bước lên xe. Ðứa bé nói với giọng run run:

- Ông ơi, có người lên đó. Ông chạy đi.

Thế rồi hai ông cháu dìu nhau chạy về phía sông Bồ, qua những quãng đường lầy lội và dưới dòng mưa đêm lạnh giá.[...]. Ðến bên đò làng Thanh vào khoảng một giờ khuya. Gió ngoài thổi vào lạnh như cắt thịt. Ðứa cháu sắp dắt ông vào mui thuyền thì như nghi ngại điều gì, người kéo xe mù đã cất tiếng hỏi:

- Tiền xe mô đưa cho ông?

Ðó là một câu hỏi bất ngờ vì mấy lần trước có bao giờ ông hỏi đến đâu. Hay cũng hỏi cho biết số, chứ chưa lúc nào ông định giữ lấy. Ðứa cháu run lẩy bẩy, lúng túng rồi bỗng ôm mặt khóc. Chỉ nghĩ thoáng qua người kéo xe mù đã hiểu ra lẽ thật. Có gì đâu, không thấy khách và muốn ông nó vui lòng, thằng bé đã bê một tảng đá nặng đặt lên nệm xe và dìu ông nó chạy.

Trí non nớt của nó có ngờ đâu mấy năm lao khổ trong nghề, ông nó phân biệt rất tinh tường người ngồi và vật đặt khác nhau nhiều lắm. Nhưng ông nó vẫn chạy, vì mù quáng, vì đói rách nên lòng vẫn hy vọng những chuyện không bao giờ có được. Và biết ra thì thêm khổ. Thấy cháu khóc, ông cũng nức nở theo.

      Rồi giữa đêm lạnh, phần già yếu, phần đau buồn, phần đói rét, ông gục xuống dần rồi lăn ra chết ngất.

Ðứa bé sợ thất thanh la hét nghe đứt ruột. Nhưng gió của trời thét mạnh hơn và tiếng nó đành chịu rã rời bay lạc giữa đêm mưa tầm tã. Bên kia sông, huyện Quảng Ðiền xa quá. Chỉ còn vài ngọn đèn dầu chập chờn trong xóm quê đen tối. Con đò đã cắt đường qua lại từ lâu, không đem được lòng từ thiện của bến kia qua bao trùm nỗi thảm thương của bờ nọ.

Sáng mai đi chợ Thanh Lương, khách qua đường thấy trên bờ sông vắng một đứa trẻ thơ đang ngồi khóc thảm thiết bên cạnh một người già nua đã chết cứng đờ. Dân quanh xóm thương tình, người ít kẻ nhiều dồn nhau lại mua cái hòm mới và chôn cất người kéo xe già tử tế.

Về sau đêm nào cũng như đêm nào, vào khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng đó đều thấy một cái bóng xe tay loang loáng chạy về phía làng Thanh Trúc. Người làm giữa ruộng dưới đêm trăng, các em mục đồng và cả sư cụ chùa Linh Hải đều nhận thấy nhiều lần. Và giữa đêm mưa lạnh ông từ làng Thanh Trúc còn nghe thấy cả tiếng nhạc xe trước cổng đình nữa...

Người ta bàn tán và nói rất nhiều. Lúc ấy, làng Thanh Trúc được kiện nên cho thuyền đưa khách qua lại như cũ. Gặp lúc vui dân làng liền quyên tiền để xây cái am cho người kéo xe "linh hiển".

            (Thanh Tịnh - Văn & đời, Ngô Vĩnh Bình, NXB Thuận Hóa, 2011, tr. 221-224)

[1] Am: chùa nhỏ, miếu nhỏ.

[2] Cu ly: người lao động làm thuê những việc nặng nhọc như khuân vác, kéo xe... dưới thời thực dân.

[3] Lạc thành: mừng việc hoàn thành một công trình xây dựng.

Thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 5

Câu 1. Xác định điểm nhìn trong truyện.

Câu 2. Chỉ ra những đặc điểm củanhân vật chính trong truyện.

Câu 3. Nêu tác dụng của phép tu từ chêm xen trong câu văn sau: Về sau đêm nào cũng như đêm nào, vào khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng đó đều thấy một cái bóng xe tay loang loáng chạy về phía làng Thanh Trúc

Câu 4. Nêu cảm nhận về nhân vật người cháuqua chi tiết “thằng bé đã bê một tảng đá nặng đặt lên nệm xe”.

Câu 5. Nhận xét của anh/chị về phần kết của tác phẩm “Về sau, đêm nào cũng như đêm nào.... người kéo xe linh hiển”.

Phần II. Làm văn

Câu 1.

Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá tình huống truyện trong trích đoạn truyện ngắn “Am cu ly xe” của tác giả (Thanh Tịnh)

Câu 2 

Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về thông điệp được gợi ra câu nói sau: Chúng ta đều là những thiên thần chỉ có một cánh, và chúng ta phải ôm lấy lẫn nhau để học bay.

-----Hết-----

Đáp án

Câu 1:

Phương pháp:

Vận dụng kiến thức về điểm nhìn của người kể chuyện để xác định 

Cách giải: 

Điểm nhìn: nhân vật “tôi”

Câu 2: 

Phương pháp:

Tìm chi tiết miêu tả ngoại hình, hoàn cảnh, tính cách của nhân vật ông lão kéo xe.

Cách giải: 

Đặc điểm của nhân vật chính: Ông già mù, đầu tóc bạc phơ, người gầy gò và trán hói   

Câu 3: 

Phương pháp:

Vận dụng kiến thức về biện pháp tu từ chêm xen để nhận biết và phân tích tác dụng 

Cách giải: 

- Biện pháp tu từ chêm xen: vào khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ

- Tác dụng:

+ Bổ sung ý nghĩa phụ chú cho trạng ngữ “Về sau đêm nào cũng như đêm nào”, giúp xác nhận thông tin một cách cụ thể, chi tiết về sự việc những người ở quanh vùng đêm nào cũng thấy một cái bóng xe tay loang loáng chạy về phía làng Thanh Trúc

Câu 4:

Phương pháp:

Phân tích, ý nghĩa của hành động "bê tảng đá" của người cháu 

Cách giải: 

Nhân vật người cháu qua chi tiết “thằng bé đã bê một tảng đá nặng đặt lên nệm xe”:

- Thằng bé bê tảng đá đặt lên xe vì không thấy khách và muốn ông nó vui lòng

- Nhân vật có tấm lòng hiếu thảo,

- Nhân vật có cảnh ngộ thật đáng thương

Câu 5:
Phương pháp:

Gợi ý:

Nhận xét về phần kết của tác phẩm:

 - Hình ảnh người kéo xe linh hiển xuất hiện và hành động của người dân làng Thanh Lương tuy không tạo ra kết thúc có hậu cho tác phẩm nhưng góp phần giảm bớt không khí bị thương não nề của tác phẩm.

- Chi tiết kì ảo làm câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn.

Cách giải: 

Phần kết của tác phẩm "Am cu ly xe" để lại trong lòng người đọc nhiều dư âm sâu sắc. Bằng việc đưa vào yếu tố kì ảo là hình ảnh bóng ma người cu-ly xe hiện về đêm đêm cùng tiếng nhạc xe văng vẳng, nhà văn Thanh Tịnh đã tạo nên một kết thúc mở đầy ám ảnh. Chi tiết này không chỉ làm tăng sức hấp dẫn, li kì cho câu chuyện mà còn thể hiện một triết lí nhân văn sâu sắc. Sự "linh hiển" của người kéo xe phản ánh khát vọng về sự bất tử của những linh hồn oan khuất, đồng thời thể hiện tấm lòng thương cảm, trân trọng mà người dân dành cho một thân phận bé nhỏ, khổ đau. Kết thúc ấy vì thế không bi lụy mà chan chứa tình người, giúp giảm bớt không khí bi thương và nâng đỡ tâm hồn người đọc bằng niềm tin vào sự cao đẹp của lòng trắc ẩn.

Phần II. Viết

Câu 1:

Phương pháp:

Gợi ý:

* Xác định tình huống truyện: ông già mù kéo xe ế khách, đứa cháu thương ông nên đặt tảng đá lên xe cho ông kéo; khi biết sự thật, vì buồn,  già yếu, đói rét, ông già mù đã chết.

* Nghệ thuật xây dựng tình huống:

- Tạo nên một tình huống éo le khi đặt nhân vật vào hoàn cảnh éo le: nhân vật làm nghề kéo xe chở khách mà già yếu, bị mù, phải có cháu nhỏ dẫn đường; chiếu xe rách nát; khách thương hại nên không ngồi xe, xe ế; cái chết thảm thương của ông già mù.

- Tạo nên một tình huống bất ngờ thông qua hành động, lời thoại nhân vật: câu hỏi bất ngờ của ông già mù “tiền mô đưa cho ông” và sự thật trong hành động của cháu: đặt tảng đá lên xe để ông kéo vì thương ông.

- Tình huống truyện được triển khai qua kết cấu truyện trong truyện với ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện được nghe câu chuyện và kể lại; ngôn ngữ giàu cảm xúc, có chất thơ; kết hợp yếu tố miêu tả sinh động... 

* Đánh giá ý nghĩa của tình huống:

+ Góp phần khắc họa nhân vật trung tâm là ông già mù với cảnh ngộ éo le, số phận thảm thương. 

+  Góp phần khắc họa nhân vật người cháu: cảnh ngộ đáng thương, có tấm lòng hiếu thảo.

+ Thể hiện niềm thương cảm của nhà văn đối với những người lao động nghèo trong xã hội thực dân nửa phong kiến.

+ Cho thấy tài năng của nhà văn Thanh Tịnh trong thể loại truyện ngắn.

Cách giải: 

Truyện ngắn "Am cu ly xe" của Thanh Tịnh hấp dẫn người đọc trước hết bởi một tình huống truyện vừa chân thực, vừa éo le và đầy tính nhân văn. Tình huống ấy xoay quanh cảnh ngộ trớ trêu của hai ông cháu người kéo xe mù: vì lòng thương hại, khách không nỡ ngồi lên chiếc xe cũ nát do ông lão yếu ớt kéo, nhưng chính sự thương hại ấy lại khiến họ càng thêm túng quẫn, dẫn đến bi kịch cuối cùng. Cao trào của tình huống được đẩy lên khi người cháu, với trái tim non nớt nhưng đầy yêu thương, đã đặt một tảng đá lên xe để ông tưởng có khách, mong ông vơi bớt nỗi buồn. Hành động xuất phát từ tấm lòng hiếu thảo ấy lại trở thành giọt nước tràn ly, khiến ông lão nhận ra sự thật phũ phàng về thân phận bị xã hội ruồng bỏ của mình, và gục ngã vì tủi nhục, đói rét. Tình huống này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một tình huống truyện hay. Nó không chỉ thắt nút và đẩy xung đột đến đỉnh điểm, làm nổi bật số phận bi kịch của con người nhỏ bé trong xã hội cũ, mà còn khắc họa sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn: tình yêu thương trong sáng của đứa cháu và sự kiên cường đến cay đắng của người ông. Qua đó, nhà văn gián tiếp lên án một xã hội thờ ơ, và cất lên tiếng nói cảm thông, trân trọng những phẩm giá cao đẹp ẩn chứa ngay trong những kiếp người tưởng chừng như thấp bé nhất.

Câu 2: 

Phương pháp:

Dàn ý tham khảo:

1. Mở bài

* Dẫn dắt, giới thiệu câu danh ngôn

2. Thân bài:

* Giải thích ý kiến

- Chúng ta đều là những thiên thần một cánh: không có ai hoàn hảo cả, mỗi người đều có điểm yếu, có những khiếm khuyết;

- Ôm lấy nhau: phối hợp, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau bằng sự gắn kết, yêu thương chân thành...;

- Học bay: vượt qua những khó khăn, để thành công...

=> Câu nói mang đến một bài học/thông điệp ý nghĩa: Trong cuộc sống chúng ta phải đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Có như vậy, chúng ta mới vượt qua được những khó khăn vươn đến những tầm cao mới.

* Phân tích và chứng minh: Tại sao con người lại phải đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau?

- Con người ai có cũng những khiếm khuyết. Khi đoàn kết, tương trợ nhau, những khiếm khuyết của chúng ta sẽ được lấp đầy bằng điểm mạnh của người khác;

- Mỗi cá nhân chỉ có thể phát huy năng lực, sở trường của mình trong một tập thể;

- Trong cuộc sống, có nhiều khó khăn vượt quá khả năng của một cá nhân. Chỉ khi con người hợp sức nhau lại, những khó khăn mới được đẩy lùi;

....

- Dẫn chứng: (HS lấy dẫn chứng phù hợp, thuyết phục)

* Bàn luận, nâng cao vấn đề:

- Bằng cách nói hình ảnh, câu danh ngôn đề cao một thông điệp đã trở thành chân lí: tinh thần đoàn kết, sức mạnh tập thể chính là đôi cánh nâng đỡ cho mỗi cá nhân, giúp con người vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống;

- Tuy nhiên, nếu cá nhân chỉ biết dựa vào người khác, không có ý thức tự vươn lên thì cũng không thể bay qua những khó khăn hoặc có được thành công trong cuộc sống, nếu có thì sự thành công ấy không bền vững.

- Phê bình những cá nhân luôn quay lưng lại với tập thể; những người chỉ biết vun vén lấp đầy cho những khiếm khuyết của cá nhân mà không hỗ trợ, có tinh thần cống hiến ngược lại cho tập thể

* Bài học nhận thức và hành động:

- Muốn đi xa thì hãy đi cùng nhau, sự tương trợ cho nhau sẽ khiến ta bay qua những khó khăn, đến với thành công...

- Để làm được điều đó, chúng ta cần hòa nhập với tập thể, học cách hợp tác, biết sống có trách nhiệm ...

3. Kết bài

- Khẳng định: Vai trò của đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống

Cách giải: 

Bài viết tham khảo:

Trong bản giao hưởng của cuộc sống, mỗi chúng ta đều là những nốt nhạc riêng lẻ, chỉ khi hòa quyện cùng nhau mới tạo nên khúc ca hoàn chỉnh. Triết lý "Chúng ta đều là những thiên thần chỉ có một cánh, và chúng ta phải ôm lấy lẫn nhau để học bay" chính là minh chứng sâu sắc cho sức mạnh của sự kết nối và đồng hành trong hành trình chinh phục những ước mơ.

Thật vậy, hình ảnh "thiên thần một cánh" là một ẩn dụ đầy tính nhân văn về thân phận con người. Không ai trong chúng ta sinh ra đã hoàn hảo, mỗi người đều mang trong mình những khiếm khuyết, giới hạn riêng. Nếu chỉ đứng một mình, chúng ta như những vì sao lẻ loi giữa bầu trời đêm vẫn tỏa sáng nhưng cô độc và khó có thể vươn tới những tầm cao mới. Chính sự không hoàn hảo ấy khiến chúng ta cần đến nhau, cần "ôm lấy lẫn nhau" để tạo thành đôi cánh vững chắc, cùng nhau "học bay", cùng nhau vượt qua thử thách, chinh phục những mục tiêu mà đơn độc không thể thực hiện.

Trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, sức mạnh của sự đoàn kết đã nhiều lần được chứng minh. Nhìn lại quá khứ hào hùng của dân tộc Việt Nam, chính tinh thần "lá lành đùm lá rách", "chung lưng đấu cật" đã giúp cha ông ta vượt qua bao cuộc xâm lăng của kẻ thù hùng mạnh. Trong đại dịch COVID-19 vừa qua, hình ảnh các y bác sĩ "chiến binh áo trắng" xông pha nơi tuyến đầu, những tình nguyện viên không ngại hiểm nguy hỗ trợ cộng đồng, hay những nghĩa cử "lá lành đùm lá rách" đã trở thành biểu tượng đẹp về sự sẻ chia. Đó không phải là những hành động đơn lẻ, mà là sự kết nối của hàng triệu trái tim, hàng triệu "đôi cánh" cùng chung sức vượt qua bão giông.

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, khi nhịp sống ngày càng hối hả, không ít người đã chọn cho mình lối sống cá nhân, khép kín. Họ nghĩ rằng có thể tự mình "bay" thật cao, thật xa mà không cần đến sự giúp đỡ của ai. Nhưng họ không hiểu rằng, những chuyến bay đơn độc ấy sẽ nhanh chóng đuối sức và dễ dàng gục ngã trước giông bão cuộc đời. Một doanh nghiệp dù có tài năng đến đâu cũng không thể phát triển bền vững nếu thiếu đi sự đồng lòng của tập thể. Một học sinh dù thông minh xuất chúng cũng khó có thể thành công nếu không biết hợp tác, học hỏi từ bạn bè.

Bài học từ câu nói "Chúng ta đều là những thiên thần chỉ có một cánh" thật sâu sắc và ý nghĩa. Nó nhắc nhở chúng ta rằng, thành công thực sự không phải là điểm đến mà ta có thể đạt được một mình, mà là hành trình ta đi cùng nhau. Khi biết "ôm lấy" người khác, chúng ta không chỉ giúp họ tỏa sáng mà còn đang hoàn thiện chính mình. Mỗi sự giúp đỡ, mỗi lần sẻ chia, mỗi hành động yêu thương đều là những chiếc lông vũ quý giá góp phần tạo nên đôi cánh vững chắc cho cả tập thể.

Là những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất: biết lắng nghe khi bạn bè tâm sự, sẵn sàng giúp đỡ khi ai đó gặp khó khăn trong học tập, cùng nhau xây dựng một tập thể đoàn kết. Bởi chỉ khi mỗi người biết mở lòng đón nhận và sẻ chia, chúng ta mới thực sự có thể cùng nhau "bay" cao, "bay" xa đến những chân trời tri thức và nhân văn.

Cuộc sống vốn dĩ không phải là một cuộc đua solo, mà là một hành trình đồng đội. Hãy luôn nhớ rằng, chúng ta sinh ra không phải để bay một mình, mà để cùng nhau vượt qua mọi khoảng cách, cùng nhau chạm tới những ước mơ. Và quan trọng hơn cả, khi biết "ôm lấy lẫn nhau", chúng ta không chỉ học được cách bay, mà còn cảm nhận được ý nghĩa đích thực của hạnh phúc.



Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu
Tải về

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 12 - Chân trời sáng tạo - Xem ngay

Group 2K8 ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí