Tra cứu theo chữ cái bắt đầu
a - ă - â b c d - đ e - ê g h k l m n o - ô - ơ p q r s t u - ư v x y
Ca dao, tục ngữ bắt đầu bằng D - Đ
Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ, Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha.
Dạy con từ thuở còn thơ, Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Đói cho sạch, rách cho thơm
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh, Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.
Dù ai nói ngả nói nghiêng. Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Đố ai đếm được vì sao Đố ai đếm được công lao mẹ già.
Dạy con từ thuở tiểu sinh Gần thầy gần bạn tập tành lễ nghi
Dốt đến đâu học lâu cũng biết
Dao có mài mới sắc, người có học mới nên.
Đêm đêm con thắp đèn trời Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Dù cho đất đổi trời thay Trăm năm vẫn giữ lòng ngay với đời.
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn
Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết
Dao năng liếc thì sắc, người năng chào thì quen
Dứa đằng đít, mít đằng cuống.
Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ
Đói lòng ăn hạt chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Dâu là con, rể là khách
Đến đây viếng cảnh viếng thầy Không say mùi đạo cũng khuây mùi trần
Dốt kia thì phải cậy thầy Vụng kia cậy thợ thì mày làm nên
Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng
Đường đi những lách cùng lau Cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con.
Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước
Được mùa cau, đau mùa lúa
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn, Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Đông chết se, hè chết lụt
Được no bụng, còn lo ấm cật
Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
Đi mô cũng nhớ quê mình, Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.
Đầu năm ăn quả thanh yên, Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.
Đói thì đầu gối phải bò Cái chân hay chạy, cái giò hay đi.
Đứt gánh giữa đường.
Dốt đặc còn hơn chữ lỏng
Đèn cu li nửa nước nửa dầu, Nửa thương cha mẹ, nửa sầu nợ duyên.
Đói miếng hơn tiếng đời
Dâu hiền hơn con gái, rể hiền hơn con trai.
Dì ruột thương cháu như con, Rủi mà không mẹ, cháu còn cậy trông.
Dẫu rằng da trắng tóc mây, Đẹp thì đẹp vậy, dạ này không ưa.
Đạo vợ, nghĩa chồng.
Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau
Đầu năm gió to, cuối năm gió bấc
Đói ăn vụng, túng làm liều
Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ
Đất màu trồng đậu trồng ngô Đất lầy cấy lúa, đất khô làm vườn
Đông the, hè đụp.
Đàn ông học sẩy học sàng, đến khi vợ đẻ thì làm mà ăn
Đi bộ thì khiếp Hải Vân Đi thuyền thì khiếp sóng thần, hang Dơi
Đi xe không mũ, lãnh đủ tang thương
Đổi trắng thay đen.
Đàn ông đóng khố đuôi lươn, Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh.
Đừng tham của rẻ của ôi, Những của đầy nồi là của chẳng ngon.
Được ta, xót xa người.
Đàn ông rộng miệng thì tài Đàn bà rộng miệng thì tai láng giềng.
Đói thì ăn ráy ăn khoai, đừng thấy lúa giỗ tháng Hai mà mừng
Đời vua Thái Tổ - Thái Tông Con bế, con dắt, con bồng, con mang
Được mùa chê cơm hẩm. Mất mùa lẫm cơm thiu
Dâu dâu, rể rể cũng kể là con
Đi giày cao đế, ngồi ghế bành tượng
Đời cha đi hái hoa người, Đời con phải trả nợ đời cho cha.
Đôi ta vợ cấy, chồng cày, Chồng nay sương sớm, vợ nay sương chiều.
Đông Thành là mẹ là cha, Đói cơm, rách áo thì ra Đông Thành.
Được người mua, thua người bán
Được tiếng còn hơn được miếng
Dù ai chồng rẫy, vợ chê Bánh dày Quán Gánh thì về với nhau.
Đã thành gia thất thì thôi, Đèo bòng chi lắm tội trời ai mang.
Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi.
Đắng như mật cá mè.
Điên điển mà đem muối chua, Ăn cặp cá nướng đến vua cũng thèm.
Đốn cây ai nỡ dứt chồi, Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương.
Đừng có chết mất thì thôi Sống thì có lúc no xôi chán chè.
Dẫu ai xấu xí như ma Tắm nước Đồng Lâm cũng ra con người
Đầu năm trồng chuối, cuối năm trồng cam
Đô Lương dệt gấm thêu hoa, Quỳnh Lưu tơ lụa để mà sánh đôi.
Đói bụng chồng, đau lòng vợ.
Đông Nam có chớp chéo nhau Thấp sát mặt biển hôm sau bão về
Đức Thọ gạo trắng nước trong Ai về Đức Thọ thong dong con người
Được mùa quéo, héo mùa chiêm
Đa tình thì vướng nợ tình Trách ai đã vậy, trách mình sao đây!
Đất không ải thì rải thêm phân
Đông rắc tía tía màu hồng Gọi con thủ thỉ bảo chồng nhỏ to
Đậu ra hoa, thì ta vun gốc
Đường đi chín xã Sông Con, Hỏi thăm ông Hường Hiệu có còn hay không?
Đẻ con chẳng dạy chẳng răn, Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng
Đi chơi bốn bề chỉnh chu, Trở về xó bếp chuột chù gặm chân.
Đồn rằng kẻ Trọng lắm cau, Kẻ Cát lắm mía, kẻ Mau lắm tiền.
Đông chí trồng bí trồng bầu