Vẻ đẹp tâm hồn qua bài thơ Quê hương của Tế Hanh>
Giữa lúc phần đông các thi sĩ Thơ mới đang thở than sướt mướt với tình yêu tuyệt vọng, với mối sầu cô đơn, Quê hương của Tế Hanh cất lên một tiếng nói khỏe khoắn khác lạ
Tổng hợp đề thi giữa kì 2 lớp 7 tất cả các môn - Kết nối tri thức
Toán - Văn - Anh - KHTN...
Bài mẫu 1
Giữa lúc phần đông các thi sĩ Thơ mới đang thở than sướt mướt với tình yêu tuyệt vọng, với mối sầu cô đơn, Quê hương của Tế Hanh cất lên một tiếng nói khỏe khoắn khác lạ. Trong khi các thi sĩ đồng quê như Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ đưa người đọc lên đến những làng thôn xứ Bắc yên ả, tươi vui với Cổng làng, Chợ Tết, Đám hội, Bến đò ngày mưa; với Trưa hè, Chiều xuân… Tế Hanh lại nhớ về một làng quê làm nghề chài lưới ở miền Trung Trung Bộ với cuộc sống lao động vất vả mà đầy chất thơ. Chính sự “lạc giọng” này khiến chúng ta càng chú ý hơn đến Quê hương và nhiều vần thơ lúc ấy của Tế Hanh.
Nhiều người vẫn có ấn tượng rằng đã là nhà thơ lãng mạn thì phải nói đến tình yêu đau khổ cô đơn, hoặc phải nhớ nhung mơ mộng đắm đuối. Nếu tìm tòi theo hướng ấy tất sẽ thất vọng khi đến với tập Hoa niên của Tế Hanh. Không, Tế Hanh không phải là nhà thơ “Lãng mạn ròng” như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên… ít ra ở Quê hương, lời con đường quê là những bài từng được Thi nhân Việt Nam tuyển chọn. Có lẽ nhà thơ đã viết Quê hương bằng cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, mến yêu con người lao động tràn trề sức lực, bằng những kỉ niệm nồng nàn nhất của mình. Nếu không có tấm lòng ấy làm sao có được cảm xúc phấn chấn trong những dòng thơ này:
Chiến thuyền hẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường gian
Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm! Các hình ảnh so sánh hùng tráng hiếm thấy trong Thơ mới lãng mạn. Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê và bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó nên mới liên tưởng: “Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động được gửi gắm ở đấy.
Cảm hứng phấn chấn của Tế Hanh được cất lên từ cuộc sống gian lao, mạnh mẽ của cái làng vjan chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ mình. Nó bất chấp khoảng cách thời gian, không gian. Trong xa cách lòng tưởng nhớ quê hương mà bài thơ không hề gây cảm giác xa xôi. Như biểu hiện sinh động trước mắt ta hình ảnh “Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng/ Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”, hình ảnh mái chèo phăng phăng, cánh buồm no gió. Và cả cảnh ồn ào đáng yêu khi chào đón thành quả lao động:
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
“Nhờ ơn trời biển lặng, cá đầy ghe”
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Ở đoạn trước, khi tả cảnh ra đi “mạnh mẽ vượt Trường Giang” của đoàn thuyền, hơi thở phăng phăng, phơi phới. Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo niềm vui của dân làng, theo những chiếc thuyền trở về nằm im trên bến. Chính từ đây, xuất hiện mấy câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của Quê hương:
Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
Không là người con của vạn chài thì không thể viết được những câu thơ như thế! Hơn nữa, chỉ viết được những câu thơ như thế khi biết âm thầm đặt hồn mình vào đối tượng, vào cảnh vật để lắng nghe. Khi đặt hồn vào đó rồi, các khứu giác, xúc giác tinh tế của nhà thơ như phập phồng thu nhận những cảm giác. Chất muối mặn mòi thấm dần trong thớ vỏ chiếc thuyền hay đã ngấm sâu vào làn da, thớ thịt, vào tâm hồn Tế Hanh để thành niềm ám ảnh gợi bâng khuâng, kì diệu? Tế Hanh thật tài và thật khí sống trong lòng sự vật, có khả năng nghe thấu cảm giác, tiếng lòng của những vật vô tri.
Một tâm hồn như thế khi nhớ nhung tất chẳng thể nhàn nhạt, bình thường; hơn vậy, đây lại là nhớ quê hương:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Nếu không có mấy câu thơ kết thúc này, ta không biết Quê hương được viết trong xa cách, trong niềm tưởng nhớ khôn nguôi. Những hình ảnh của quê hương trên kiaa đã thành kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi. “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá” – câu thơ cuối cùng cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha thành thực của Tế Hanh.
Biểu hiện tình yêu và nỗi nhớ, niềm tự hào đối với cuộc sống lao động của quê hương, bài thơ sử dụng thuần thục thể thơ tám chữ với lời gieo vần chân. Vần chân được gieo liên tiếp và đổi thay theo từng cặp câu, đoạn sau lại được bắt liền với đoạn trước. Thể thơ cùng lối gieo vần này chúng ta cũng bắt gặp ở nhiều bài thơ lãng mạn nổi tiếng Nhớ rừng của Thế Lữ, Tương tư chiều của Xuân Diệu… Nó rất thích hợp khi diễn ra dòng cảm xúc miên man, cuồn cuộn. Sau hai câu có ý nghĩa giới thiệu, cả bài thơ Quê hương được cuốn đi trong dòng cảm xúc vừa hùng tráng, vừa thiết tha sâu lắng. Điều thú vị là gần 20 năm sau, khi viết Nhớ con sông quê hương (1956). Tế Hanh lại vận dụng thành công thể thơ, lối gieo vần này. Nói đúng hơn, tâm hồn nhớ thương “Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới” đã tự nhiên “bắt” Tế Hanh đến với một hình thức nghệ thuật thích hợp.
Tưởng nhớ quê hương trong xa cách trở thành một dòng cảm xúc chảy dọc đời thơ Tế Hanh. Cái làng chài nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng “Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông” đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ ông, đã trở thành một điểm hướng về để ông viết nên những vần thơ thiết tha, đau đáu. Trong dòng cảm xúc ấy, Quê hương là thành công khởi đầu rực rỡ. Bài thơ mang âm hưởng khỏe khoắn, toát lên tình cảm đậm đà, trong sáng của chàng thi sĩ Tế Hanh ở đọ hoa niên giữa lúc bầu trời thơ xung quanh lắm chỗ đang ảm đạm.
Bài mẫu 2
Trong dàn hợp xướng thời Thơ mới, có lẽ cây đàn Tế Hanh đã góp vào những vần thơ vừa khoẻ khoắn, trong trẻo, vừa không kém phần nồng đượm, có một âm hưởng đằm thắm riêng. Bài Quê hương trong tập thơ ra mắt của Tế Hanh - tập thơ đã được giải thưởng Tự lực văn đoàn, hầu như chúng đúc được khá đầy đủ những đặc điểm ấy. Nó rất trong mà vẫn đượm. Nó cho ta biết được gì về tâm hồn chàng trai mười tám tuổi đối với quê hương hồi đó.
Trước hết, ta dễ dàng nhận ra ở Tế Hanh một bản chất thực gắn bó với mặt đất cần lao của cuộc đời khác với những hồn thơ giàu chất thơ mộng của những Lưu Trọng Lư, Huy Cận, hay đầy huyền ảo lung linh của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Cái làng “vốn làm nghề chài lưới... cách biển nửa ngày sông” của ông, được nhắc đến với đôi mắt xác định rõ ràng, không chút tô vẽ. Tuy nhiên, tác giả chỉ lưu ý đến những sắc tươi, nét mạnh trong bức tranh quê hương. Bức tranh ấy được dựng lại trên nền cảnh “trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng”, với những chi tiết rắn rỏi, đầy yếu tố tích cực.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mũ.
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Rắn rỏi, nhưng không quá cục mịch, thô sơ. Tác giả còn có một tâm hồn bay bổng, không thiếu những khái vọng cao xa, được tượng hình trong cánh buồm căng đón gió - một hình ảnh thực hoà với mộng, dây diều sát đất nhưng cánh diều đồng thời vẫn bay liệng vi vút tít ười cao, mang phong cách đặc trưng của Tế Hanh.
Tâm hồn nhạy cầm ấy còn có chiều sâu ân tình, bề dày gắn bó của nó, mang đậm ý vị đằm thắm, sắc thái đôn hậu cũng rất Tế Hanh: từ thân thể người dân chài ngâm nước, ướp nắng biển khơi “nồng thở vị xa xăm” cho đến con thuyền mỏi mệt lặng nằm trên bến.
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Câu thơ hàm chứa một ý vị không cùng. Chất tình nghĩa đậm đà trong tâm hồn nhà thơ cứ ngâm mãi vào lòng ta, như chất muối mặn ăn mãi vào vỏ thuyền, như bao kỉ niệm buồn vui, bao cung bậc bổng trầm dọc đường đời đã nhuyễn vào trong ta thành máu thịt...
Kết thúc bài thơ, Tế Hanh lại trở về với cái “mùi nồng mặn” rất thực. Nhưng đó là cái thực tinh tuý, đã được nhân lên trong tâm tình, đã đọng lại thành kỉ niệm đã bay cao thành ước mơ. Một lần nữa, ta nhận ra chiếc dây diều thơ ca của Tế Hanh bám chắc vào mặt đất của thực lại như thế nào. Một lần nữa, ta vui mừng được giao tiếp với một hồn thơ khoẻ lành, trong sáng. Nó không hề làm nặng đầu la với những bóng dáng siêu hình, những vô thức u minh, nhưng nó vẫn chắp cánh mộng mơ, bồi đắp khát vọng cho ta có đà “rướn thân” lên “thâu góp gió” đời, “phăng mái chèo... vượt trường giang”
Bài mẫu 3
Quê hương luôn là một cảm hứng sâu sắc cuốn hút hấp dẫn những nhà thơ Việt Nam. Đồng thời nó cũng là nơi để cho họ bày tỏ những cảm xúc yêu quê hương của mình. Nếu như chúng ta đã biết đến những vần thơ quê hương của Giang Nam "Quê hương là con diều biết/ Tuổi thơ con thả trên đồng" thì chúng ta cũng biết đến bài thơ quê hương của Tế hanh. Quê hương Tế Hanh là một vùng biển, qua việc miêu tả giới thiệu miền quê ấy Tế Hanh thể hiện lòng yêu thương trân trọng nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Bài thơ mở đầu bằng một lời giới thiệu tuy giản dị nhưng chỉ có được ở những người hiểu rõ giá trị của nghề nghiệp làng mình:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới.
“Vốn” là đã có từ lâu, đã làm nghề chài lưới lừ lâu. Không yêu quê hương, không ngẩng cao đầu kiêu hãnh về quê hương thì không dám nói dứt khoát đến giản dị như thế về quê hương. Từ câu mở đầu ấy, mạch thơ mở rộng dần. Làm nghề chài lưới nên làng mới bị “nước bao vây”, mới có cảnh đi đánh cá. Đoàn thuyền đánh cá được tác giả tả lại trong sáu câu thơ liền một mạch với những hình ảnh rất thực nhưng cũng rất lãng mạn
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la than tuấn mã
Con thuyền được ví như con tuấn mã. Cánh buồm so sánh với mảnh hồn làng, cách so sánh mới mẻ và hay. Với làng chài lưới, với những con thuyền ra khơi, tấm buồm có ý nghĩa lớn lao, tượng trưng cho sức đi xa, tượng trưng cho cuộc sống lao động của dân làng. Nhìn cánh buồm nghĩ đến mảnh hồn làng, liên lưởng đó thật tự nhiên. Hình ảnh tiếp sau cố tính tạo hình rõ rệt: “Rướn” là vươn lên cao với tất cả sức mạnh của mình. Cánh buồm nhìn từ xa như đang cố gắng vươn lên, “rướn thân trắng” để thu góp gió của biển khơi đưa con thuyền ra xa. Cách nhìn ấy là của một hoạ sĩ tài ba. Nó tạo thêm cho hình ảnh cánh buồm chất hùng tráng và lãng mạn.
Bài thơ tràn đầy những chi tiết thực của đời sống làng chài tiếng “ồn ào trên bến đỗ”, cảnh người đông đúc “tâp nập đón ghe về”, cảnh “cá đầy ghe”, với “thân bạc trắng”. Nó vẽ lên khung cảnh lao động khẩn trương và yêu đời của những người dân chài. Trên nền chung ấy, nổi bật hình ảnh khoẻ mạnh toát ra sức sống mạnh mẽ của người lao động vùng biển:
Dân chài lưới làn da ngâm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.
Cách tạo dựng hình ảnh bằng cảm xúc bắt nguồn từ thính giác, khứu giác ấy còn đem đến cho bài thơ nhiều hình ảnh mới lạ khác về cuộc sống làng chài:
Chiếc thuyền im bến mồi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thở vỏ.
Cho nên đi xa, nhớ về quê hương, nhà thơ có nhắc đến màu nước xanh, con cá hạc, chiếc buồm, con thuyền rẽ sóng, nhưng chi tiết sâu đậm nhất lại là:
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Cái mùi nồng mặn ấy theo Tế Hanh suối cả cuộc đời, nhắc nhở ông mãi mãi nhớ về quê hương dù ở đâu, làm gì.
Loigiaihay.com


- Bài thơ Quê hương của Tế Hanh đã khắc họa bức tranh cảnh thuyền đánh cá ra khơi trong buổi bình minh tuyệt đẹp. Hãy viết 10-12 câu tiếp theo để hoàn thành đoạn văn trong đó có sử dụng câu cảm thán, phép liên kết câu.
- Hãy viết đoạn văn nêu cảm nhận về khổ thơ cuối bài thơ Quê hương
- Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Quê hương của Tế Hanh
- Viết đoạn văn về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Tế Hanh
- Nêu cảm nhận của em về hình ảnh người dân làng chài qua bài thơ Quê hương của Tế Hanh
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 7 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Hãy viết một bài văn nêu bật tình cảm và lòng biết ơn của em đối với chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đồng thời kể lại một việc tốt mà chính em đã làm để thực hiện 5 điều bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng.
- Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ lớp 7
- Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến sự kiện lịch Cách mạng tháng Tám lớp 7
- Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến nhân vật lịch sử Hai Bà Trưng lớp 7
- Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến nhân vật lịch sử Võ Nguyên Giáp lớp 7
- Hãy viết một bài văn nêu bật tình cảm và lòng biết ơn của em đối với chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đồng thời kể lại một việc tốt mà chính em đã làm để thực hiện 5 điều bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng.
- Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ lớp 7
- Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến sự kiện lịch Cách mạng tháng Tám lớp 7
- Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến nhân vật lịch sử Hai Bà Trưng lớp 7
- Viết bài văn kể lại sự việc liên quan đến nhân vật lịch sử Võ Nguyên Giáp lớp 7