200+ đề đọc hiểu Văn 12 | Luyện đề đọc hiểu lớp 12 80+ Đề đọc hiểu Truyện truyền kì - Luyện đề đọc hiểu Vă..

Đọc hiểu Người liệt nữ ở An Ấp (Đoàn Thị Điểm) | Luyện đề đọc hiểu Văn 12


Hoàng triều về đời niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời Lê Dụ Tông có vị Tiến sĩ trẻ tên là Đinh Hoàn, hiệu Mặc Trai, người làng An Ấp, tỉnh Nghệ An), cha mẹ mất sớm

GÓP Ý HAY - NHẬN NGAY QUÀ CHẤT

Gửi góp ý cho Loigiaihay.com và nhận về những phần quà hấp dẫn

Câu hỏi

Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi:

NGƯỜI LIỆT NỮ Ở AN ẤP

(Trích Truyền kì tân phả, Đoàn Thị Điểm)

Hoàng triều về đời niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời Lê Dụ Tông có vị Tiến sĩ trẻ tên là Đinh Hoàn, hiệu Mặc Trai, người làng An Ấp, tỉnh Nghệ An), cha mẹ mất sớm, ít anh em. Lớn lên, lập gia thất nhưng bà vợ đầu cứ sinh luôn con gái, nên ông lấy con gái Hà quan, họ Nguyễn làm vợ thiếp. Bà này nghi dung nhàn nhã, ăn nói đoan trang, thêu thùa, khâu vá rất lành nghề, lại có tài văn thơ nổi tiếng. Khi về nhà chồng tự sửa mình nghiêm chỉnh, rất có lễ độ với chồng. Đinh Hoàn vừa yêu, vừa kính trọng. Gặp những khi ở triều lui về rảnh việc, thường cùng với bà xướng hoạ văn thơ, hâm mộ các vị trung thần liệt nữ. Các bài xướng hoạ đã chép ở tập Quan thư hòa minh, nay không lục ra đây. Nhớ lại có một hôm về mùa xuân, ông ngủ dậy muộn, bà làm một bài thơ “thoát trầm”(3) có ý khuyên can.

Lược một bài thơ [...]

Ông xem thơ than rằng: “Lời thơ tao nhã, ngụ ý sâu xa, đời xưa khen Khương hậu)... và Từ phi(5) cũng chưa là tột bực vậy”. Bèn vời phu nhân đến, nhận lỗi từ tạ. Từ đó, ông vắt tóc nhà cơm(6), ăn muộn dậy sớm, trong hàng quan nổi tiếng là người cần mẫn. Đến năm Ất Tí, triều đình kén sứ thần đi Trung Quốc kết nối bang giao, quần thần cử ông sung vào chức ấy. Ông lại về nhà riêng, gọi phu nhân bảo rằng:

– Ta sinh vào thời Lê, nhận quan tước triều Lê, ăn bổng lộc triều Lê, đông, tây, nam, bắc vua sai đi đâu là đi đấy, nếu làm được hết phận sự không phụ lòng uỷ thác của nhà vua thì ta cũng lấy làm thoả mãn cái chí bình sinh của ta vậy. Suy nghĩ nàng liễu bồ yếu ớt, vắng vẻ cô phòng, chặn sương gối tuyết gia lòng trinh, hoa xuân trăng thu gửi mối hận, nghĩ đến tâm tình ấy, càng thêm bồi hồi, đó là lòng ta quyến luyến vì nàng mà không sao dời đi được. Phu nhân nghe nói ngậm ngùi hồi lâu chứa chan mà rằng:

– Sứ mệnh cần lao, tang bồng khí khái, là phận sự của trượng phu. Thiếp nay không những là người không biết và cũng không dám can thiệp đến. Còn như bèo bọt chút thân, phấn hoa phận gái, như thiếp này thật không đáng kể. Duy có một điều đáng lo ngại là: lang quân thể chất vàng ngọc, dấn thân vào nơi giá lạnh, lên núi lội nước, gội gió tắm mưa, tiêu điều nơi đất khách, vất vả phong trần, khi ấy mỗi người ở một nơi, thiếp này dù có can trường như sắt đá cũng không tài nào không mềm rủ được. Nói xong, nước mắt tràn xuống như mưa. Ông nhiều lần vỗ về nhưng phu nhân do lòng lo buồn mà sinh bệnh. Ông rất lấy làm áy náy nhưng vì việc nước rất cần nên đành phải tạm khuây khỏa.

(Tóm tắt đoạn lược: Đến kì đăng trình, trăm quan làm lễ tiễn hành, người nhà ông đi theo đến trạm Lữ tư tạm nghỉ lại. Phu nhân nâng chén rượu làm bài thơ tặng chồng, trước khi đi, chồng có tặng cho bà cái la y, bà quyến luyến nửa mê nửa tỉnh. Đinh Hoàn đi sứ di qua nhiều nơi, mỗi nơi đều đề vịnh thơ. Thơ ông hay và được so sánh với thơ của những bậc danh nhân: Lý Bạch (7) Hạ Tri Chương (8), Mạnh Giao (9), Thiếu Lăng(10) Vệ Giới(11),... Đường đi gian nan, vì sức yếu lại lo lắng thương tâm trước cái chết của những người đi cùng nên ông đã mất tại Yên Kinh. Trước khi mất, ông chỉ băn khoăn việc nước chưa lo trọn vẹn. Biết tin chồng mất, phu nhân thương tiếc làm một bài văn tế ca ngợi công đức của chồng và bày tỏ tình cảm sâu sắc, nguyện hi sinh theo chồng.)

Thấy lời lẽ bài văn tế ấy là bà có ý quyên sinh, mọi người đều đã khuyên giải:

- Phu nhân ngày thường vốn nổi tiếng là người thông tuệ. Sao nay cố chấp quả như thế. Này, vợ chồng dẫu là đạo cả nhưng âm dương hai ngả khác nhau. Cho nên nàng Lục Chân(12) tự gieo mình xuống lầu, chưa chắc theo được chồng; người trinh nữ đứng trên núi hoá đá, cũng chỉ là vô ích. Huống chi sứ quân chết về việc nước, phu nhân cần gì phải làm cho mai tàn, liễu úa, nát ngọc chìm châu. Nếu vậy không phải là tấm lòng trung của sứ quân lúc ngày thường vậy.

Phu nhân gạt nước mắt mà rằng:

- Vị vong nhân này không dám mua cái tiếng chặt vai khoét mắt đâu, chỉ vì xuân về hoa héo, lòng chết hình còn, không tưởng gì đến nhân gian nữa.

Người nhà thấy khuyên giải không ăn thua gì, có ý đề phòng cẩn thận không rời phu nhân một bước. Một hôm, phu nhân đốt đèn ngồi một mình, khi ấy là mùa thu muộn, giờ vàng hiu hắt, cây khuya xào xạc, sâu tường nỉ non, tiếng đập vải lạnh lùng như giã vào lòng người cô phụ, trăng suông như rọi vào giọt lệ Vương sinh.

Nỗi thương tâm khiến phu nhân đờ đẫn, nhìn đâu cũng toàn thấy cảm sầu. Phu nhân càng thêm thê thảm, gục xuống bàn mà nức nở khiến cõi lòng chìm sâu vào cõi đê mê. Trong cơn dật dờ đó, thấy một người khăn vuông đai rộng từ xa đến gần, nhìn kĩ hoá ra chính là chồng vậy. Phu nhân đón chào, mừng quá chảy nước mắt mà rằng:

- Từ khi cách biệt đã bốn năm rồi, biết bao nỗi bi sầu, mộng hồn tản mát, không nơi nào là không tìm đến tung tích lang quân, ấy thế mà lang quân chẳng có đoái hoài gì đến thiếp. Nếu bảo rằng trần gian và thiên thượng hai nơi cách biệt, thì sao Thuần phi (13) có hội ngộ, Chức Nữ (4) lại tương phùng, vậy thì lang quân đối với thiếp rất là bạc tình!

Ông buồn nét mặt mà rằng:

– Ta từ khi về chầu thiên đình, được trông coi về việc bút nghiên, nơi thiên tào công việc nhiều, không có thì giờ đến thăm nàng, còn tấm lòng khăng khít thuỷ chung này không bao giờ thay đổi.

Phu nhân muốn lưu ông ở lại tự tình. Ông vỗ về nói:

– Chết sống là lẽ thường xưa nay, hợp tan là tuần hoàn việc thế. Vì Ngọc Tiên(15) có duyên tái hợp, Dương Thái Chân (16) cơ ước lai sinh. Vi Ngọc phải bỏ phiền về nơi học lãnh gương tan, cái ngày chúng ta gặp nhau sắp đến rồi.

Nói xong, có một trận thanh phong, không biết ông biến đi đâu mất. Phu nhân thương khóc chợt tỉnh dậy, sai thị nữ ra xem trời đất chỉ thấy sương mù trăng mờ, đêm đã gần sáng rồi.

Từ đó phu nhân lại càng có ý quyên sinh nhưng chưa có dịp. Đến ngày lễ tiểu tường (17) ông, người nhà bận việc, phu nhân ở trong buồng xé cái áo mà ngày trước ông tặng tự thắt cổ đến chết. Đến khi người nhà biết thì phu nhân đã tắt thở rồi. Cả nhà thương cảm, tống táng theo tang lễ. Việc ấy tâu lên, triều đình cho lập đền thờ, đề bảng nêu ra cửa, khắc chữ: “Trinh liệt phu nhân từ ban cấp tổ điển” bốn mùa có tế lễ, người làng cầu đảo đều có linh ứng.

(Lược một đoạn...)

Vài năm sau, có người thư sinh họ Hà đi vãn cảnh đến đền Liệt nữ, làm bài thơ ca ngợi phu nhân nhưng tỏ ý không coi trọng Đinh Hoàn. Phu nhân đã mời thư sinh đến tranh luận và đưa ra lí lẽ để bảo vệ Đinh Hoàn, cho rằng ông là người sống trung nghĩa, chết vì non sông, đáng trân trọng.

           (Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, NXB Giáo dục, 2001)

(1)Vĩnh Thịnh: Niên hiệu của Lê Dụ Tôn.

(2) Nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

(3) Thoát trâm: trút cái trâm cài đầu. Chu Tuyên vương thường dậy muộn, bà Khương hậu rút bỏ trâm cài đầu và hoa đeo tai, đứng ở Vĩnh Hạng để can vua. Tuyên vương cảm ngộ, từ đó ra chầu thật sớm, làm nên nghiệp Trung Hưng.

(4) Khương hậu: Vợ Chu Tuyên vương.

(5) Từ Phi: Vợ Dương Thái Tông.

(6) Vắt tóc, nhả cơm: Chu công đang gội đầu có hiền sĩ đến, ba lần vắt tóc cho khô để ra tiếp, đang ăn cơm, có hiền sĩ đến, ba lần nhả miếng cơm ra để đón khách.

(7) Thi nhân danh tiếng thời Đường.

(8) Thi nhân danh tiếng thời Đường.

(9) Thi nhân danh tiếng thời Đường.

(10) Thiếu Lăng: Đỗ Phủ, vì ông ở Thiếu Lăng cho nên người ta gọi là Đỗ Thiếu Lăng, thơ ông hay nhất thời Đường.

(11) Vệ Giới: Người đời Tấn, từ nhỏ nổi tiếng là con người ngọc, sau thích bàn về huyền lí.

(12) Nàng Lục Chân là thiếp yêu của Thạch Sùng rất đẹp. Khi Sùng bị Tôn Tú bắt, nàng nhảy từ trên lầu xuống chết.

(13) Thuần phi: Vợ vua Thuấn, Nga Hoàng và Nữ Anh hai chị em (con vua Nghiêu) đều lấy Thuần, khi mất làm thần sông Tương.

(14) Chức Nữ: Tích “Ngưu Lang, Chức Nữ”, hằng năm được gặp nhau một lần vào ngày 7 tháng 7

(15) Vi Ngọc Tiên: Đời Đường, Vi Cao lúc hàn vi, ở trọ nhà họ Khương, chung tình với nàng Ngọc Tiên và tặng nàng một cái vòng tay, hẹn 7 năm đến cưới làm vợ. Quá hạn không đến, nàng tự sát.

(16) Dương Thái Chân: Dương Quý phi bị chết ở núi Mã Ngôi, sau lại tái sinh cùng với Đường Minh Hoàng kết làm vợ chồng lần nữa.

 (17) Lễ tiểu tường: Lễ tang chẵn một năm, cũng gọi là luyện tế.

 

* Đoàn Thị Điểm (1705 –1749), hiệu: Hồng Hà nữ sĩ, là nữ sĩ Việt Nam thời Lê Trung Hưng. Bà là tác giả tập Truyền kì tân phả (chữ Hán) và tác giả của truyện thơ Chinh phụ ngâm (bản chữ Nôm – 412 câu thơ). Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và Sương Nguyệt Anh.

Câu 1

Xác định những dấu hiệu đặc trưng của truyện truyền kì trong văn bản Người liệt nữ ở An Ấp

Xem lời giải
Phương pháp giải

Nhận diện các yếu tố đặc trưng của thể loại truyện truyền kì

Lời giải chi tiết

Những dấu hiệu đặc trưng của truyện truyền kì trong văn bản này bao gồm:

- Yếu tố kì ảo, hoang đường: Giấc mơ của phu nhân, nơi bà gặp lại người chồng đã khuất. Ông hiện về trong hình dạng lúc sống, trò chuyện và an ủi vợ về sự tái hợp trong kiếp sau,...

- Bối cảnh: 

+ Thời gian: Hoàng triều về đời niên hiệu Vĩnh Thịnh, đời Lê Dụ Tông

+ Không gian: làng An Ấp, tỉnh Nghệ An

Câu 2

Truyện Người liệt nữ ở An Ấp viết về đề tài gì?

Xem lời giải
Phương pháp giải

Khái quát nội dung chính, chủ đề xuyên suốt tác phẩm

Lời giải chi tiết

- Truyện viết về đề tài người phụ nữ trong xã hội phong kiến

Câu 3

Phân tích vẻ đẹp nổi bật ở nhân vật chính. Nêu nhận xét của em về sự việc quyên sinh của phu nhân ở gần cuối tác phẩm

Xem lời giải
Phương pháp giải

Phân tích nhân vật dựa trên các chi tiết trong văn bản; đưa ra nhận xét, đánh giá cá nhân

Lời giải chi tiết

- Vẻ đẹp nổi bật của nhân vật phu nhân:

+ Tài năng, thông tuệ: Bà là người "có tài văn thơ nổi tiếng", thường xướng họa với chồng, biết dùng thơ văn để khuyên can chồng 

+ Đức hạnh, nết na: Bà "tự sửa mình nghiêm chỉnh, rất có lễ độ với chồng", là người vợ hiền thục, biết giữ gìn gia phong.

+ Thủy chung, son sắt: Bà đau đớn, sinh bệnh vì lo lắng cho chồng đi sứ. Khi chồng mất, nỗi đau và sự trung trinh khiến bà quyết định quyên sinh để theo chồng.

+ Cứng cỏi, có chính kiến: Ở cuối truyện, dù đã thành thần linh, bà vẫn hiện lên để tranh luận với văn nhân, bảo vệ danh dự và sự nghiệp trung nghĩa của chồng.

- Nhận xét về sự việc quyên sinh của phu nhân:

+  Hành động này là đỉnh cao của sự thuỷ chung, son sắt, là biểu tượng cho lòng trinh liệt đáng ngợi ca trong quan niệm xưa. Nó thể hiện khí phách và quyết tâm giữ trọn "đạo vợ chồng", không chấp nhận sống trong cảnh cô đơn, đau khổ.

+ Đồng thời, đây cũng là một bi kịch của người phụ nữ bị ràng buộc bởi những quan niệm phong kiến khắc nghiệt ("trung liệt tiết hạnh"). 

Câu 4

Phân tích ý nghĩa của yếu tố kì ảo trong tác phẩm và cho biết: Chúng có vai trò như thế nào trong việc khắc họa nhân vật chính

Xem lời giải
Phương pháp giải

Chỉ ra các chi tiết kì ảo và phân tích ý nghĩa, vai trò của chúng.

Lời giải chi tiết

- Ý nghĩa và vai trò của yếu tố kì ảo:

+ Giấc mơ gặp lại chồng: Chi tiết này cực tả nỗi nhớ thương, tâm trạng đau khổ cùng cực và khát khao đoàn tụ của phu nhân. Nó cho thấy tình yêu của bà vượt qua cả ranh giới của sự sống và cái chết. 

+ Việc phu nhân hiện lên tranh luận với thư sinh: Khắc họa hình ảnh một người phụ nữ mạnh mẽ, có học thức, có chính kiến ngay cả khi đã khuất. Bà không chỉ thủy chung trong tình cảm riêng tư mà còn kiên quyết bảo vệ danh dự và sự nghiệp chính nghĩa của chồng. 

→ Ý nghĩa: 

+ Giải quyết mâu thuẫn kịch tính và thể hiện ước mơ, khát vọng công lí của con người

+ Làm nổi bật vẻ đẹp nhân vật và khẳng định giá trị "trung nghĩa" của cả hai vợ chồng, mang lại kết thúc viên mãn, có hậu theo quan niệm xưa.

Câu 5

Nhận xét đặc điểm ngôn ngữ của tác phẩm.

Xem lời giải
Phương pháp giải

Phân tích các đặc điểm về từ ngữ, cách diễn đạt được sử dụng trong văn bản.

Lời giải chi tiết

- Ngôn ngữ mang tính ước lệ, điển cố, điển tích: sử dụng nhiều điển tích (Khương hậu, Từ phi, Thuần phi, Chức Nữ, Ngưu Lang, Vi Ngọc, Dương Thái Chân...) và điển cố ("vắt tóc nhả cơm"). 

- Ngôn ngữ trang trọng, cổ kính: sử dụng nhiều từ Hán Việt

- Ngôn ngữ đối thoại sinh động, thể hiện rõ tính cách nhân vật: giúp khắc họa rõ nét tâm tư, tình cảm, khí phách của nhân vật.

→ Ngôn ngữ tác phẩm vừa trang trọng, vừa giàu cảm xúc và hình tượng, góp phần quan trọng tạo nên thành công cho tác phẩm.

 


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 12 - Xem ngay

Group 2K8 ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí