

Giải Luyện tập và vận dụng trang 39 - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều>
Thiết kế trục thời gian thể hiện các giai đoạn phát triển kinh tế của Nhật Bản từ năm 1945 đến nay.
Tổng hợp đề thi học kì 2 lớp 12 tất cả các môn - Cánh diều
Toán - Văn - Anh - Hoá - Sinh - Sử - Địa
Luyện tập 1
trang 39, sách chuyên đề học tập Lịch sử 12
Thiết kế trục thời gian thể hiện các giai đoạn phát triển kinh tế của Nhật Bản từ năm 1945 đến nay.
Lời giải chi tiết:
Vận dụng Câu 2
Câu 2 (trang 39, sách chuyên đề học tập Lịch sử 12)
Trong những thành tựu của Nhật Bản từ năm 1945 đến nay, em ấn tượng với thành tựu nào nhất? Giới thiệu thành tựu đó với thầy cô và bạn học.
Lời giải chi tiết:
Em ấn tượng với thành tựu về công nghệ
Sự phát triển công nghệ của Nhật Bản là một trong những thành tựu ấn tượng nhất của quốc gia này, đặc biệt là từ sau Thế chiến II. Với sự cam kết vào đổi mới và nâng cao chất lượng, Nhật Bản đã trở thành một trong những trung tâm công nghệ hàng đầu thế giới.
Công nghệ Nhật Bản không chỉ nổi tiếng về các sản phẩm điện tử tiên tiến như máy tính, điện thoại di động, máy ảnh và các thiết bị gia dụng thông minh, mà còn trong lĩnh vực công nghệ cao như robot, xe tự lái, và công nghệ y tế. Các công ty lớn như Sony, Toyota, Panasonic và Canon đã đóng góp nhiều vào sự phát triển và phổ biến của công nghệ Nhật Bản trên toàn thế giới.
Một điểm đáng chú ý là sự đổi mới liên tục trong ngành công nghiệp. Nhật Bản không ngừng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, từ việc áp dụng trí tuệ nhân tạo vào sản xuất đến việc phát triển công nghệ xanh và bền vững. Họ cũng tập trung vào việc kết hợp công nghệ với truyền thống và văn hóa địa phương, tạo ra những sản phẩm độc đáo và phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Không chỉ đó, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, các trường đại học và chính phủ cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển công nghệ của Nhật Bản. Bằng cách hợp tác và chia sẻ kiến thức, họ đã tạo ra một môi trường độc đáo và sáng tạo, đẩy mạnh tiến bộ và cạnh tranh toàn cầu.
Vận dụng Câu 3
Câu 3 (trang 39, sách chuyên đề học tập Lịch sử 12)
Lựa chọn một trong những bài học từ thành công của Nhật Bản và đề xuất một số giải pháp có thể vận dụng vào công cuộc đổi mới của Việt Nam.
Lời giải chi tiết:
- Một trong những bài học từ thành công của Nhật Bản mà Việt Nam có thể học hỏi là cam kết vào đổi mới công nghệ. Việc này có thể giúp Việt Nam thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện chất lượng cuộc sống và tạo ra sự cạnh tranh toàn cầu.
- Để áp dụng bài học này, Việt Nam có thể thực hiện một số giải pháp như sau:
+ Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D): Chính phủ cần tăng cường đầu tư vào các chương trình nghiên cứu và phát triển công nghệ mới, đặc biệt là trong các lĩnh vực có tiềm năng như công nghệ thông tin, sinh học, và năng lượng tái tạo. Điều này sẽ tạo ra cơ sở cho sự đổi mới và sáng tạo trong kinh tế.
+ Tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới: Chính phủ cần thiết lập các chính sách và cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, bằng cách cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính và thuế suất ưu đãi cho các hoạt động đổi mới.
+ Hợp tác công tư: Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác giữa các doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu trong việc chia sẻ kiến thức và kỹ thuật, tạo ra một môi trường hỗ trợ cho việc đổi mới công nghệ.
+ Đào tạo lao động chất lượng cao: Đầu tư vào giáo dục và đào tạo chuyên sâu trong các lĩnh vực công nghệ mới là cần thiết để có được lực lượng lao động có trình độ và kỹ năng phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động.
Bằng cách áp dụng những giải pháp này, Việt Nam có thể tận dụng tiềm năng của mình trong việc phát triển công nghệ và tạo ra một môi trường kinh doanh và đổi mới sáng tạo, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Vận dụng Câu 4
Câu 4 (trang 39, sách chuyên đề học tập Lịch sử 12)
Sưu tầm tư liệu về sự phát triển “thần kì” kinh tế của Nhật Bản. Giới thiệu tư liệu đó với thầy cô và bạn học.
Lời giải chi tiết:
Trong khoảng 20 năm sau chiến tranh (1951-1973), nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ rất nhanh chóng. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản. Từ một nước đứng dậy từ trong đóng tro tàn của chiến tranh, Nhật Bản đã trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trong thế giới tư bản sau Mỹ. Từ 1952-1973, tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế của Nhậ Bản thường ở mức cao nhất trong các nước tư bản. So với năm 1950, năm 1973 giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 20 lần, từ 20 tỷ USD lên 402 tỷ USD, vượt Anh, Pháp, CHLB Đức.
Tốc độ phát triển công nghiệp hằng năm thời kỳ 1950-1960 là 15,9%; từ 1960-1969 là 13,5%. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên 56,4 tỷ USD năm 1969. Đúng một trăm năm sau cải cách Minh Trị (1868-1968), Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về tàu biển, xe máy, máy khâu, máy ảnh, ti vi; đứng thứ hai về sản lượng thép, ô tô, xi măng, sản phẩm hóa chất, hàng dệt…
Một số ngành công nghiệp then chốt đã tăng lên với nhịp độ rất nhanh. Mặc dù Nhật Bản hầu như không có mỏ dầu nhưng đã đứng đầu các nước tư bản về nhập và chế biến dầu thô, riêng năm 1971 đã nhập tới 186 triệu tấn dầu thô; công nghiệp sản xuất thép năm 1950 là 4,8 triệu tấn; 1973: 117 triệu tấn. Năm 1960, công nghiệp ô tô Nhật Bản còn đứng hàng thứ sáu trong thế giới tư bản, đến năm 1967 vươn lên hàng thứ hai sau Mỹ. Năm 1968, Nhật Bản sản xuất được 2 triệu ô tô. Công nghiệp đóng tàu đến những năm 70 chiếm trên 50% tổng số tàu biển và có sáu trong mười nhà máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản. Sự phát triển nhanh một số ngành kinh tế đã làm thay đổi nhanh cơ cấu ngành sản xuất của Nhật Bản. Tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm đi đáng kể, các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh.
Ngành nông nghiệp tuy tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc dân giảm, nhưng sản lượng và năng suất lao động lại tăng nhanh. Lao động nông nghiệp giảm từ 14,5 triệu năm 1960 xuống còn 8,9 triệu năm 1969. Tổng giá trị sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp năm 1969 là 9 tỷ USD.
Giao thông vận tải, nhất là phương tiện vận chuyển tăng nhanh. Đến đầu thập kỷ 70, Nhật Bản đứng đầu các nước tư bản về vận tải đường biển.
Ngoại thương được coi là nhịp thở của nền kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950 đến năm 1971 kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần từ 1,7 tỷ USD lên 43,6 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu tăng 30 lần, nhập khẩu tăng 21 lần.


Các bài khác cùng chuyên mục
- Giải Luyện tập và vận dụng trang 57 - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều
- Giải Mục II. Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều
- Giải Mục I. Một số khái niệm - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều
- Giải Mở đầu trang 40 - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều
- Giải Luyện tập và vận dụng trang 39 - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều
- Giải Luyện tập và vận dụng trang 57 - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều
- Giải Mục II. Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều
- Giải Mục I. Một số khái niệm - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều
- Giải Mở đầu trang 40 - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều
- Giải Luyện tập và vận dụng trang 39 - Chuyên đề học tập Lịch sử 12 Cánh diều