Binh giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu


Thi phẩm này quả là một bài thơ hay, rất tiêu biểu cho phong cách tài hoa, phong tình lãng mạn của Xuân Diệu — nhà thơ mới nhất của phong trào thơ mới.


Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Xuân Diệu

- Giới thiệu chung về bài thơ Vội vàng

2. Thân bài

a. 13 câu đầu – Tình yêu cuộc sống tha thiết, đắm say của Xuân Diệu:

- Đoạn thơ ngũ ngôn:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

- Nghệ thuật:

+ Điệp cấu trúc “tôi muốn, cho”, điệp từ “đừng”: như một lời cầu xin khẩn thiết

=> Tác dụng: Nhấn mạnh khao khát chảy bỏng, tha thiết, được “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ màu cho cuộc sống, giữ hương cho đời, lưu giữ mãi khoảnh khắc đẹp nhất của thiên nhiên hiện tại.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si.

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

- Nghệ thuật: điệp cấu trúc, đảo ngữ “của này đây, này đây của”, liệt kê

=> Phơi bày ra vẻ đẹp không kể hết, không tả xiết của cõi trần gian. Nhà thơ căng mở các giác quan để đón nhận vẻ đẹp trần thế. Đây cũng chính là tiêu chí của nhà thơ Xuân Diệu được lặp lại trong rất nhiều bài thơ khác:

“Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn

Sống toàn than và thức nhọn giác quan”

=> Xuân Diệu đã cảm nhận đầy đủ hương vị và thanh sắc của cuộc đời

- Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế:

+ “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”: vị ngọt

+ “Này đây hoa của đồng nội xanh rì”: hương thơm, màu sắc

+ “Này đây lá của cành tơ phơ phất”: dáng hình uyển chuyển

+ “Của yến anh này đây khúc tình si”: âm thanh

+ “Này đây ánh sáng chớp hang mi”: ánh sáng của bình minh xuân.

=> Tất cả những vẻ đẹp mỗi ngày như một bữa tiệc đầy đủ, thịnh soạn, bày ra gõ cửa mang niềm vui đến từng nhà.

=> Quan điểm mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu: Cuộc sống xung quang chúng ta đẹp vô cùng. Vẻ đẹp không ở đâu xa mà ở ngay cõi trần thế, xung quanh mình

- Vẻ đẹp của mùa xuân tình yêu: Khu vườn xuân đã biến thành khu vườn yêu, sự vật có đôi, có cặp. Từ thi nhân trước khu vườn mùa xuân tình thế thành tình nhân trong khu vườn tình yêu.

+ Xuân Diệu khái quát lại: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

+ “Tháng giêng” là tháng đầu tiên của mùa xuân, căng mọng đẹp tươi nhất

+ “Cặp môi gần”: căng mọng, tươi đẹp nhất của tuổi trẻ.

+ “Ngon”: nghệ thuật chuyển đổi cảm giác. Tháng giêng chỉ năm tháng, trừu tượng => môi gần: hữu hình, cụ thể

=> Có thể cảm nhận, hưởng thụ vẻ đẹp của mùa xuân rõ nét, cụ thể hơn

- Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ: Trong văn học xưa, coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp thì trong thơ Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của cái đẹp, tôn vinh vẻ đẹp của con người.

- Xuân Diệu luôn mang nỗi ám ảnh bởi thời gian, lo sợ thời gian chảy trôi mình sẽ không đón nhận được, tận hưởng từng giây từng phút vẻ đẹp của cuộc sống.

- Suy tư của Xuân Diệu:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nữa”.

=> Dấu chấm ngách đôi câu thơ, diễn tả hai cảm xúc của Xuân Diệu, chuyển từ cảm giác sung sướng sang hoài niệm.Tiếc xuân ngay cả trong lúc xuân đang đẹp nhất, mới có ý thức đón nhận, cảm nhận, căng mở tất cả các giác quan để đón nhận tất cả vẻ đẹp của cuộc đời.

b. 16 câu tiếp: Quan niệm mới về thời gian của Xuân Diệu

* 2 câu thơ đầu:

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”

- Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại

- Nghệ thuật:

+ Cách ngắt nhịp tuần tự trong cả hai câu thơ ¾, diễn tả bước đi của thời gian

+ Điệp cấu trúc: điệp cấu trúc kiểu câu định nghĩa.

+ Cặp từ đối lập: tới – qua, non – già.

=> Tác giả muốn nhấn mạnh quy luật bước đi, sự vận hành của thời gian, tuần tự, không trở lại.

* 7 câu thơ tiếp theo

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”

- Mùa xuân đi qua mang theo tuổi thanh xuân của con người, quy luật mang tính tác động tiêu cực.

- Nghệ thuật: Dựng lên những cặp đối lập:

+ Rộng >< chật

+ Xuân tuần hoàn >< tuổi trẻ

+ Còn trời đất >< chẳng còn tôi mãi

=> Sự vô hạn, vô cùng của trời đất nhưng đời người thì hữu hạn.

- “Lượng trời chật”: Chật khi lấy đi tuổi trẻ, tuổi xuân của mỗi ngừoi

- “Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian/ tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.

=> Tuổi trẻ là thời đẹp đẽ của mỗi người.

=> Cảm xúc của nhà thơ: bâng khuâng, tiếc nuối

* 7 câu thơ cuối:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”

- Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: tháng năm có mùi vị, tháng năm được cảm nhận bằng giác quan khứu giác “mùi”, vị giác “chia phôi”, thị giác “rớm”, hữu hình hóa tháng năm vốn trừu tượng.

- Những câu thơ sau là sự giải thích: Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt; Con gió xinh thì thào trong lá biếc; Chim rộn rang bỗng đứt tiếng reo thi.

=> Dòng chảy của thời gian khiến vạn vật từng giây phút luôn có những cuộc chia li, vạn vật chia li với một phần đời đã qua của mình.

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

=> Cảm xúc nuối tiếc, nền tảng khơi dậy những khao khát cháy bỏng ở đoạn sau

c. 10 câu thơ cuối: Giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời

- Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tuổi trẻ là gian đoạn đẹp nhất của đời người.

- Nghệ thuật:

+ Thay đổi cách xưng hô: “tôi” sang “ta”

+ Dùng một loạt các động từ mạnh: ôm, riết, say, thâu.

=> Muốn tận hưởng bằng tất cả các giác quan. Vẻ đẹp cuộc đời nhiều vô cùng, đầy ăm ắp, thịnh soạn của bàn tiệc mùa xuân, cuộc đời

+ Sử dụng nhiều tính từ: chếnh choáng, đã đầy, no nê

=> Diễn tả sự thỏa mãn tột cùng khi tận hưởng.

“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

- Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: mùa xuân không còn vô hình, trừu tượng, tác giả hình dung mùa xuân như trái chín ửng hồng, muốn “cắn” => mong muốn được hưởng thụ

- Quan niệm sống của tác giả: Hãy tăng tốc độ sống, tận hưởng và tận hiến

3. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ

 

Bài mẫu

Bài tham khảo số 1:

   Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biếu nhất cúa phong trào thơ mới 1932-1945. Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình Hoài Thanh đã viết: “Với Thể Lữ, thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới”. Bài thơ “Vội vàng” đã minh chứng cho nhận xét thiên tài đó.

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

   Bốn câu thơ mở đầu nói cái ước muốn giữ mãi vẻ đẹp của những chốn trần gian. Rồi nhà thơ cầm tay chúng ta và náo nức chỉ những cảnh thật đáng yêu đang phô bày ra trước mắt:

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

 Của yến anh này dây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa.

   Một bức tranh tuyệt tác của Tạo hóa có màu sắc tươi mát (xanh rì), có âm thanh vui (khúc tình si) và chứa chan ánh sáng. Trái đất ta đang sống quả là một Thiên đường! Và trong Thiên đường đó, đáng yêu nhất là hình ánh:

      Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

   Nghệ thuật xưa coi thiên nhiên là chuẩn của cái đẹp, cho nên Nguyễn Du viết: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”.

   Vẻ đẹp của đôi mắt nàng Kiều được so sánh với làn nước mùa thu; lông mày nàng Kiều được so sánh với nét núi thanh tú của mùa xuân. Nghệ thuật Xuân Diệu ngược lại, coi con người là chuẩn của cái đẹp, cho nên mới có câu thơ xuất thần đó đem so sánh thiên nhiên với con người.

   Đang vui nhà thơ bỗng giật mình:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”.

   Câu thơ bị bẻ gãy làm hai, nói lên cái lo sợ của con người khi nhận ra một sự thật đau đớn:

 Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

    Xuân ờ đây có hai nghĩa: Vừa là mùa xuân - mùa đẹp nhất trong năm. vừa là tuổi xuân - tuổi đẹp nhất của đời người. Cụm từ “Nghĩa là” lặp lại ba lần như một sự hoảng hốt khi hiểu ra một quy luật: Tuổi xuân chỉ có một thời; con người không thế trẻ mãi đề tận hưởng niềm vui sướng của chôn “vườn trần” này.

Nhà thơ lên tiếng hỏi cảnh vật :

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

   Thì ra không chỉ thi nhân mà thiên nhiên tươi thắm kia cũng đang tiếc nuối mùa xuân sẽ đi qua, sẽ trôi qua, thời gian một đi không trở lại.

   Trước quy luật nghiệt ngã đó của tạo hóa, con người phải làm gì? Cái ước mong “tắt nắng”, “buộc gió" là không thế thực hiện được. Thi nhân đã gợi cho chúng ta một cách sông mới mẻ:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muôn riết mây đưa và gió lượn

Ta muôn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã dầy ánh sáng

Cho no né thanh sắc của thời tươi.

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

   Đây là đoạn thơ nồng cháy nhất, hay nhất của bài thơ vì cảm xúc của thi nhân đã đạt đến cao trào.

   Tác giả đã nhân cách hóa thiên nhiên, làm cho thiên nhiên hiện lên như một người đẹp đầy vẻ hấp dẫn. Cách dùng đại từ đã khác so với phần mở đầu trên dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít (tôi) một cách dè dặt  coi đây lại dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số nhiều vì qua sự truyền cảm của bài thơ đã hòa điệu tâm hồn cùng bạn đọc. Sự “vội vàng” của thi nhân cũng phát triển dần qua cách sử dụng các động từ: “ôm” đã thân thiết, nhưng “riết" còn mạnh mẽ hơn đến “say” thì đã nồng nàn, và đến “thâu” thì đã thu tất cả mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu vào trong tâm hồn mình.

   Câu kết đã gói trọn tâm tình của thi nhân:

“Hỡi xuân hồng, ta muốn căn vào ngươi!”

   Nghệ thuật làm thơ khó nhất là viết câu cuối cùng. Nó phải nâng cao xúc cảm phải chứng tỏ rằng sự vận động của tứ thơ đến đây là hết không thể viết thêm một câu nào nữa. Xuân Diệu đã thật cao tay khi viết câu thơ trên. “Cần” là tột đỉnh cùa sự cuồng nhiệt, sự nồng cháy cùa cảm xúc. Câu thơ cảm thán như một tiếng kêu sung sướng, thỏa mãn vì tâm hồn đã “chếch choáng”, "đã đầy”, đã “no nê” khoái lạc của thiên đường trên mặt đất.

   Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều điệp từ: “ta muốn”, “và”, “cho” làm cho nhịp thơ đoạn cuối trở nên dồn dập,diễn đạt rất đúng tâm trạng cúa con người “vội vàng”.

  Thi phẩm này quả là một bài thơ hay, rất tiêu biểu cho phong cách tài hoa, phong tình lãng mạn của Xuân Diệu - nhà thơ mới nhất của phong trào thơ mới. “Vội vàng’’ bộc lộ một nhân sinh quan lành mạnh. Đó là tình yêu đời, là cách sống chân thành, sống hết mình vì một cuộc đời dầy ý nghĩa. Quả thật, “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chôn nước non lặng lẽ này’’ (Hoài Thanh).

Xem các bài tham khảo khác tại đây:

Bài tham khảo số 2

Loigiaihay.com


Bình chọn:
4.4 trên 8 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 11 - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho 2K8 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí