Phân tích đoạn trích Kiêu binh nổi loạn>
Văn học trung đại Việt Nam là một bề dày của lịch sử, là những tinh túy của con người thế hệ đi trước trải nghiệm cuộc sống của giai đoạn trung cổ viết lại và lưu truyền cho đến ngày nay.
Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 10 tất cả các môn - Cánh diều
Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh - Sử - Địa...
Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
Văn học trung đại Việt Nam là một bề dày của lịch sử, là những tinh túy của con người thế hệ đi trước trải nghiệm cuộc sống của giai đoạn trung cổ viết lại và lưu truyền cho đến ngày nay. Và trong những tác phẩm tiêu biểu đó có “Hoàng lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái. Một tác phẩm viết lại hết những dữ dội của dòng chảy lịch sử trung đại, khái quát lên khung cảnh đầy rẫy những sự tranh đoạt đẫm máu để tranh giành quyền lực thống trị thiên hạ. Và đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong tác phẩm này đã lột tả hết được sự thối nát, suy tàn của Phủ chúa Trịnh: chỉ vì ngôi báu thống trị thiên hạ mà cha, con, anh, em nổi máu tham lam đấu đá, cấu xé nhau chỉ vì quyền lực. Sự thối nát, tranh đoạt đến mức việc phế truất con trưởng lập con thứ thay quyền thống trị. Lợi ích, chia bè kết phái để thỏa mãn lòng tham của bản thân, bị lợi ích che mờ con mắt khiến đất nước rơi vào lầm than. Con dân khổ cực chăm bề, loạn lạc, rối ren khiến cho tình hình đất nước rơi vào mất kiểm soát.
Qua đoạn trích, ta có thể thấy rõ hoàn cảnh bấp bênh một mất một còn thông qua cuộc tranh quyền đoạt vị ấy nhưng người đang bị thất thế khiến cho mạng sống khó được bảo toàn của Trịnh Tông, phải nhờ đến sự trợ lực của mẹ là Thái phi họ Dương che chở trước sự đe dọa quận Huy mới tạm thời dập bớt mối nguy nan.
Với ngòi bút tả thực và có tính giải thích cặn kẽ qua nghệ thuật dùng từ, ta có thể hiểu rằng sự nổi loạn của lính kiêu binh là bởi vì họ là người thuộc phe của Trịnh Tông. Ông ta mà bị diệt khẩu thì họ cũng khó giữ lại được hơi tàn của mạng sống. Số phận thuộc “thuận nước thì đẩy thuyền, thuyền chìm là mất mạng” số phận đám tôi tớ, gia thần, binh lính của triều đại phong kiến là vậy. Hễ chỗ nào có lợi thì theo, chủ tử mà mất mạng thì đến phận như họ cũng khó mà tồn tại. Điều đó được lột tả qua hàng loạt nhân vật như: Dự Vũ, đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần, Bằng Vũ là gia binh. Chúng đều có một nỗi uất hận và căm phẫn quận Huy - kẻ thù quyết không đội trời chung của chúng. Vì thế, lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính thức, lái mũi nhọn chĩa vào quận Huy.
Tác phẩm hẳn đã được tác giả đặt hết tâm huyết thì mới tả thực được khung cảnh đẫm mùi “thuốc súng” đến như vậy, chỉ qua lời nói của nhân vật Dự Vũ thôi đã có thể hiểu nỗi lòng “căm ghét”, “hậm hực”, và toát lên được mục đích cùng nhau nổi loạn của kiêu binh để có thể trả thù, rửa hận, tận lòng muốn “diệt cỏ tận gốc” để hả hê được lòng căm phẫn quyết “không đội tròi chung” với kẻ họ ghét cay ghét đắng.
Lòng người là cái động không đáy, điều đó được thể hiện qua sự can thiệp của đám quý tộc quyền hành, thân tộc trong phủ điển hình như quận Viêm, con của hắn là Chiếu lĩnh bá, quận Hoàn, Thánh mẫu… vì lợi ích của bản thân mà a dua nịnh nọt, thả ra những lời ong bướm, mật rót vào tai ôm chân kẻ có quyền thế. Nhưng những điều ấy để làm gì, là để lấy công, lấy được sự tín nhiệm và thừa cơ đó mà vơ hết lợi lộc lại để tận hưởng. Tiêu biểu cho thái độ bàng quan là Viêm quận công. Tiêu biểu cho thái độ hớt công là Bùi Bật Trực và Chiếu lĩnh bá. Nhờ có sự can thiệp này mà chúng ta có thể nhận rõ được sự lụi bại của phủ Chúa. Quyền lực suy tàn, bất lực nên để đám kiêu binh tác oai tác quái, làm chủ cuộc chiến. Kẻ đáng ra nên cầm quyền thì chẳng khác gì bù nhìn, còn đám lưu manh thì lại cầm quyền trung ương và bắt đầu dở thói lưu manh để giải quyết lẫn nhau. Ai ngáng đường chúng, chúng sẵn sàng san phạt để đạt được mưu lợi cao nhất.
Đoạn trích hiện như một bức tranh sinh động khi miêu tả chân thực của cuộc hỗn chiến của binh lính. Qua hình ảnh của cuộc chiến, ta có thể nhận thấy rằng uy lực của họ thật mạnh. Lòng căm phẫn vì nhục mạ, khinh nhại lại họ mà họ cùng nhau nổi loạn để rửa thù, gạt hận, cùng nhau thống nhất chung sức chiến đấu. Cuộc chiến hiện lên như một dấu chấm đỏ rực soi sáng sự kiện lịch sử năm đó. Qua việc xúi giục, “đẩy thuyền” Trịnh Tông, họ dàn dựng kế hoạch, bầu người người thủ lĩnh cùng vạch sẵn kế hoạch để nổi loạn, không cần có người giật dây để họ làm vậy. Trịnh Tông chỉ là kẻ hùa theo cùng họ, vì Y hiện tại chả khác gì một con bù nhìn rơm, chỉ đâu đánh đó. Khi có tiếng trống vang lên, quân lính “nhảy nhót, hang hái, cầm binh khí xô lấn vào phủ”, “họ reo hò quát long trời lở đất”.
Đến bối cảnh tiêu diệt được quận Huy, ta có thể hình dung được sức mạnh của cuộc nổi loạn này mạnh mẽ đến đây. Họ dấy lên dạo Châu. Thoạt đầu, họ vẫn còn theo thói cũ là phục tục nghe mệnh lệnh, vì họ lúc bấy giờ vẫn còn đề phòng và sợ quận Huy, song chỉ được một lúc thì họ dấy lên phản loạn, họ nhao nhao lên như bầy kiến vỡ tổ bâu lấy “chân voi”, họ bao vây dùng gạch ngói để tấn công voi chiến của quận Huy, dùng câu liêm kéo quản tượng xuống giết, rồi họ kéo quận Huy xuống trừ khử, mổ bụng để lấy gan ăn sống và cùng lúc đó lấy đá đè chết em quận Huy. Tất cả thêu dệt lên một bức tranh sinh động như thật diễn ra ngay trước mắt người đọc, cảm giác mọi thứ cứ như đang diễn ra, sự mạnh mẽ vùng lên đòi “công đạo”, tiếng hò reo cứ như đang diễn ra thật y như hiện tại đang tiếp diễn. Tất cả sự bạo loạn ấy diễn ra cụ thể và thể hiện sức mạnh của đám đông và từ đó thể hiện một điều “có thể nâng lên được thì cũng có thể dìm xuống được”.
Qua sự miêu tả chân thực của tác phẩm, ta thấy Trịnh Tông chính là ông vua bù nhìn chính hiệu, hắn có thể lên được ngôi báu cũng chỉ là do “ăn may”, nói một cách chính xác là do sự nổi loạn của đám kiêu binh. Thành ra, đã ngồi ở ví trí là Chúa rồi nhưng hắn chẳng thể bình ổn được đám binh nhiễu loạn. Mặc cho đám phản loạn ấy lộng hành thành thổ phỉ ứng hiếp con dân của hắn, đám phản loạn đó cướp của, giết người, đốt nhà, phá làng xóm… hắn chả thể bình ổn được cái gọi là “giang sơn” của mình, hắn cứ như tên hề đang ngồi xem diễn trò, điều này thể hiện rõ trong việc hắn bị đám phản loạn ấy biến thành quả cầu nâng lên hạ xuống giữa tiếng reo hò của loạn quân và dân chúng trong chợ. Thật nực cười rằng, sau cuộc đấu đá nhau một mất một còn lại có kết quả thật hài hước đến vậy. Chả biết có nên cười hắn hay nên thương hắn đây? Một vị Chúa đáng ra phải uy nghi lẫm liệt, tiếng nói thét ra lửa, một bậc đế vương trên cả vạn người đáng ra phải “nói có nghe, đe có kẻ sợ”, ấy vậy mà trở thành đồ vật bị bọn phản loạn biến thành trò cười giữa thanh thiên bạch nhật trước bao con dân của hắn. Tình cảnh bây giờ thật là châm biếm cho chúa Trịnh Tông và cả đám quý tộc vì tưởng thân phận cao quý có quyền lực trong tay nhưng bây giờ chả khác gì những hình nhân giấy vô tri vô giác, bất lực chẳng thể làm gì.
Đoạn trích cho thấy Trịnh Tông, Thánh mẫu chỉ là đám bèo bọt trôi nổi trên bề mặt dòng thác lịch sử. Tông chỉ là con rối trong tay kiêu binh. Chỉ của Thánh mẫu chỉ là bản viết tức thời trước việc đã rồi. Khi kiêu binh thừa thế đốt phá, trả thù riêng, “Tông hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi” chứng tỏ Tông chẳng có chút uy quyền nào cả. Khi chúa vờ giết phứa “một người thường dân” (vì không dám đụng vào kiêu binh!) thì việc phá phách mới tạm ngừng, nhưng việc bắt người vẫn đang tiếp tục. Đoạn văn đã cho thấy làn sóng nổi loạn của quân lính và số phận bèo bọt của một vương triều, chứng tỏ sự thối nát cùng cực của một chế độ.
Qua bút pháp tả như người kể chuyện chân thực bên tai, ta đã thấy sự bi hài của một khoảng lịch sử trung đại của dân tộc ta. Bi ở đây là sau trận chiến đấu đá để tranh quyền đoạt vị của gia tộc đế vương khiến cho đất nước lầm than, loạn lạc, tệ nạn xã hội lộng hành khiến khung cảnh tiêu điều mà tan tác. Hài ở đây là Nước có người thống trị nhưng chỉ là hình thức. Kẻ được cho là thiên tử kia chả khác gì bù nhìn, không quyền, không thế. Tưởng rằng sau trận chiến tranh đoạt ngôi vị thì có thể “một tay che trời” ấy vậy mà giờ đây chả khác gì món đồ vật cho kẻ khác mua vui.
Qua những ngòi bút biên sử chân thật như những thước phim đặc sắc nhưng mang lại nhiều những giá trị của một biên niên đại. Qua những giá trị đó ta có thể hiểu hết được một khoảng thời gian cai trị như không của chúa Trịnh Tông, một khung cảnh tàn thương của một đất nước. Qua đó, ta cũng thấy sự mỉa mai của tác giả cho những kẻ mưu quyền đoạt lợi nhưng không thể đạt được mục đích vì chính quyền đã quá thối nát. Một bộ máy cai trị đang trong kỳ “hấp hối chờ chết”. Ấy nhưng cũng có lẽ là một niềm hy vọng le lói của tác giả mong muốn có một tương lai tốt đẹp thay thế cho khung cảnh lụi tàn của một triều đại suy vong?
Mẫu 2
Lời giải chi tiết:
"Kiêu binh nổi loạn" là một trong những đoạn trích nổi bật của tiểu thuyết chương hồi "Hoàng Lê nhất thống chí" do nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái sáng tác. Trích đoạn "Kiêu binh nổi loạn" thuộc hồi thứ hai của tác phẩm, xoay quanh việc kiêu binh làm loạn, giết chết anh em nhà Quận Huy, phế truất Trịnh Cán và đưa Trịnh Tông lên ngôi chúa. Văn bản đã tái hiện lại một cách sinh động tình cảnh khủng hoảng của xã hội lúc bấy giờ.
Mở đầu đoạn trích, Trịnh Tông hỏi Dự Vũ về việc bên ngoài lòng người ra sao. Vốn có thù với Quận Huy, Dự Vũ thuận nước, đẩy thuyền "Nhà chúa bỏ con cả, lập con út, thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng bất bình". Câu nói của Dự Vũ đã phơi bày toàn bộ hiện thực trong phủ chúa cũng như xã hội. Trong triều đại phong kiến, ngôi vua thường được trao truyền cho con cả, cũng là đích tử. Tuy nhiên, hành động "bỏ trưởng lập thứ" của chúa Trịnh khiến lòng người không phục, lại thêm hành động đàn áp của Quận Huy càng thổi bùng lên cơn tức giận của dân chúng. Cũng như Dự Vũ, Gia Thọ bày kế cho thế tử: "Lòng người như thế, nếu lấy nghĩa khí mà khích động, khiến cho họ một lòng tôn phù, thì việc lớn ắt thành". Nghe theo lời hai người, Trịnh Trông cho Dự Vũ làm cơm rồi khích động tinh thần của đám kiêu binh. Hành động của Trịnh Tông, Dự Vũ và Gia Thọ chỉ chứng minh họ là những kẻ hèn nhát, "ném đá giấu tay", mượn tay người để làm được việc của mình.
Đúng như dự đoán, những lời của Trịnh Tông đã đánh trúng vào suy nghĩ và mong muốn của đám kiêu binh. Mọi người ai nấy đều đồng thuận "Nay vương tử đã ngỏ ý cho biết như thế, thì việc này chẳng khó gì.". Trước lúc nổi loạn, quân lính họp bàn, Bằng Vũ đứng ra khởi xướng. Thấy lời Bằng Vũ thuyết phục, cả bọn bầu hắn làm chủ mưu, "giao cho gã đánh trống trước để thúc giục ba quân". Lời nói của Bằng Vũ càng khiến cho tinh thần của đám kiêu binh trở nên sục sôi. Trong lúc đó, Quận Huy biết tai họa sắp xảy ra nhưng vẫn không chút phòng bị. Người nhà khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn, "rồi gọi quân bên ngoài vào bắt bọn gian" nhưng Quận Huy để ngoài tai, cho đó là tin đồn nhảm. Quận Huy vì thiếu phòng bị và mưu lược nên mới nhận kết cục bi thảm sau đó.
Theo kế hoạch đã bàn tính trước, Bằng Vũ mở màn cuộc nổi loạn bằng ba hồi trống. Đám kiêu binh nghe thấy thì "nhảy nhót hăng hái, cùng câm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ". Khung cảnh lúc này trở nên hỗn loạn hơn bao giờ hết. Lúc ấy, cửa đóng then cài, đám người bị nhốt bên trong vẫn không ngừng hò reo, "quát tháo long trời lở đất". Quận Huy sai Quận Châu ra kiểm soát tình hình. Châu chỉ biết sợ hãi mà làm theo. Đứng trước lời đe dọa của đám người, Quân Châu sợ hãi mở cửa. Quận Huy làm tướng mà lực bất tòng tâm trước mũi nhọn của kẻ thù. Quả là hèn nhát làm sao. Được thời, đám người xông vào đập phá, tấn công vô cùng mạnh bạo. Để đàn áp quân lính, Quận Huy "giương cung định bắn nhưng bị đứt dây, vớ súng nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy". Rõ ràng, Quận Huy biết được mọi việc sẽ diễn ra nhưng không đề phòng, chuẩn bị, coi thường kẻ địch và đám đông. Quân lính được dịp dùng câu liếm móc cổ Quận Huy kéo xuống, đánh đấm túi bụi, giết chết tại chỗ. Đồng thời, lấy gạch đập vỡ đầu Hoàng Lương rồi vứt xuống hồ Thủy Quân. Có thể thấy, cuộc chiến đã được đẩy lên đỉnh điểm cùng với sự tức giận, bất mãn của đám người. Họ ra tay không chút đắn đo, vô cùng ghê rợn, tàn nhẫn. Những chi tiết trên đã cho thấy sức mạnh kinh hoàng của đám đông.
Kết cục, anh em Quận Huy chết, Trịnh Tông lên ngôi chúa. Tuy nhiên, sau khi cuộc nổi loạn diễn ra, đám kiêu binh vẫn ngang nhiên làm càn, cưỡng bách chúa cũ, trả thù các đại thần một cách tàn nhẫn. Trịnh Tông bất lực, không thể kiểm soát, sai người lén đến bắt phứa dân thường để chém ra oai. Tuy nhiên, việc lùng người để giết vẫn xảy ra. Trịnh Tông lên làm chúa, đứng đầu thiên hạ nhưng không có tài cán, không thể kiểm soát được tình hình khiến cho xã hội vẫn không ngừng biến loạn, đảo điên.
Như vậy, tác phẩm đã tái hiện lại một giai đoạn lịch sử đầy hỗn loạn vào thời Trịnh Sâm. Đồng thời, cho thấy sức mạnh của đám đông. Đám đông có thể đưa một người lên cao nhưng cũng có thể phế truất họ bất cứ lúc nào. Ngoài ra, đoạn trích còn gửi gắm bài học về sự đề phòng, cảnh giác trước nanh vuốt của kẻ thù. Bên cạnh nội dung, các yếu tố nghệ thuật cùng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Tác giả đã vận dụng linh hoạt yếu tố tự sự kết hợp với miêu tả cùng lối kể hấp dẫn để câu chuyện hiện lên một cách sinh động, cụ thể. Các sự kiện được kể theo trình tự hợp lí, rành mạch. Biện pháp nghệ thuật so sánh, đối lập độc đáo. Tính cách, đặc điểm của nhân vật được khắc họa thông qua lời nói và hành động.
Như vậy, đoạn trích "Kiêu binh nổi loạn" đã phơi bày sự thối nát của phủ chúa và thái độ căm phẫn của đoàn kiêu binh với chúa Trịnh và Quận Huy. Chỉ qua một đoạn trích ngắn nhưng tác giả đã phản ánh được tình hình xã hội dưới thời chúa Trịnh. Đồng thời, gửi đến những bài học lớn lao, ý nghĩa.
Các bài khác cùng chuyên mục