Câu 15.
Nêu 2 – 3 ví dụ về đối tượng cây trồng khác nhau có thể nhân giống bằng phương pháp ghép cành (mắt). Phân tích ưu điểm của phương pháp nhângiống này với mỗi đối tượng cây trong ví dụ đã nêu. |
Phương pháp giải:
Ví dụ về đối tượng cây trồng khác nhau có thể nhân giống bằng phương pháp ghép cành (mắt): Các giống bưởi chua, đắng làm gốc ghép cho các giống cam, quýt, bưởi, ngọt; ghép các cây hoa hồng có màu sắc khác nhau;…
Giải chi tiết:
- Ví dụ về đối tượng cây trồng khác nhau có thể nhân giống bằng phương pháp ghép cành (mắt): Các giống bưởi chua, đắng làm gốc ghép cho các giống cam, quýt, bưởi, ngọt; ghép các cây hoa hồng có màu sắc khác nhau;…
- Ưu điểm của phương pháp nhân giống này với mỗi đối tượng cây trong ví dụ đã nêu:
+ Đối với ví dụ các giống bưởi chua, đắng làm gốc ghép cho các giống cam, quýt, bưởi, ngọt: Phương pháp này sẽ giúp các giống cam, quýt, bưởi ngọt sinh trưởng, phát triển tốt nhờ tính thích nghi, tính chống chịu của cây gốc ghép; đồng thời, giúp sớm ra hoa kết quả vì cành ghép tiếp tục giai đoạn phát dục của cây mẹ.
+ Đối với ví dụ ghép các cây hoa hồng có màu sắc khác nhau: Phương pháp này sẽ giúp cây hoa hồng có vẻ đẹp độc đáo, nâng cao giá trị thẩm mĩ và kinh tế cho cây hoa hồng này.
Câu 16.
Trong quy trình nhân giống in vitro, trước khi cây được đưa ra trồng trực tiếp trên đồng ruộng, cây giống in vitro cần được trồng trong vườn ươm. Phân tích mục đích và ý nghĩa của bước làm này với hiệu quả của quy trình nhân giống. |
Phương pháp giải:
Việc trồng cây trong vườn ươm trước khi đưa cây ra trồng trực tiếp trên đồng ruộng sẽ giúp cây tập thích nghi dần với các điều kiện môi trường tự nhiên bên ngoài
Giải chi tiết:
Mục đích và ý nghĩa của bước làm trên với hiệu quả của quy trình nhân giống: Việc trồng cây trong vườn ươm trước khi đưa cây ra trồng trực tiếp trên đồng ruộng sẽ giúp cây tập thích nghi dần với các điều kiện môi trường tự nhiên bên ngoài. Nhờ đó, khi đưa cây trồng trực tiếp trên đồng ruộng, cây sẽ có tỉ lệ sống cao, sinh trưởng và phát triển tốt, ít bị sâu bệnh.
Câu 17.
Cho biết hạt và quả được hình thành từ bộ phận nào của hoa? Giải thích tại sao quả chỉ phát triển khi có quá trình thụ phấn và thụ tinh. |
Phương pháp giải:
Hạt được hình thành từ noãn đã được thụ tinh. Quả được hình thành từ bầu nhuỵ
Giải chi tiết:
- Hạt được hình thành từ noãn đã được thụ tinh. Quả được hình thành từ bầu nhuỵ.
- Quả chỉ phát triển khi có quá trình thụ phấn và thụ tinh vì: Sự phát triển của hạt và quả là những quá trình liên quan chặt chẽ được kiểm soát bởi nồng độ hormone. Đồng thời với quá trình hình thành hạt, phôi hạt cũng tăng cường tổng hợp các hormone kích thích sinh trưởng như auxin, gibberellin, cytokinin. Các hormone này sẽ khuếch tán vào bầu nhuỵ, thúc đẩy tế bào tại đây phân chia và gia tăng kích thước làm bầu nhuỵ to lên và quả được hình thành. Như vậy, nếu không có quá trình thụ phấn và thụ tinh, hạt không được hình thành thì cũng không có đủ lượng hormone kích thích cần thiết cho quả phát triển hoàn chỉnh.
Câu 18.
Vì sao nói sinh sản hữu tính làm tăng khả năng thích nghi, giúp cơ thể tồn tại được trong môi trường sống luôn biến động? |
Phương pháp giải:
Sinh sản hữu tính cho phép tạo ra các cá thể mới, các cá thể này có vật chất di truyền tái tổ hợp từ vật chất di truyền của cá thể bố và mẹ
Giải chi tiết:
Nói sinh sản hữu tính làm tăng khả năng thích nghi, giúp cơ thể tồn tại được trong môi trường sống luôn biến động vì: Sinh sản hữu tính cho phép tạo ra các cá thể mới, các cá thể này có vật chất di truyền tái tổ hợp từ vật chất di truyền của cá thể bố và mẹ, không hoàn toàn giống nhau và giống cá thể bố mẹ tạo ra nguồn biến dị phong phú nên làm tăng khả năng thích nghi, giúp cơ thể tồn tại được trong môi trường sống luôn biến động.
Câu 19.
Nhận xét về chiều hướng tiến hoá của sinh sản hữu tính ở động vật về cơ quan sinh sản, phương thức sinh sản, bảo vệ phôi và chăm sóc con. |
Phương pháp giải:
Chiều hướng tiến hoá của sinh sản hữu tính ở động vật theo hướng đảm bảo cho hiệu quả sinh sản ngày càng cao.
Giải chi tiết:
Chiều hướng tiến hoá của sinh sản hữu tính ở động vật về cơ quan sinh sản, phương thức sinh sản, bảo vệ phôi và chăm sóc con:
- Về cơ quan sinh sản: Từ chưa có phân hoá giới tính đến phân hoá giới tính (đực, cái) rõ ràng; Từ chưa có cơ quan sinh sản riêng biệt đến có cơ quan sinh sản rõ ràng; Từ cơ quan sinh sản lưỡng tính đến đơn tính rõ ràng.
- Về phương thức sinh sản: Từ thụ tinh ngoài nhờ nước đến thụ tinh trong ống sinh dục cái giúp nâng cao hiệu suất thụ tinh; Từ tự thụ tinh đến thụ tinh chéo giúp đảm bảo cho sự đổi mới và đa dạng di truyền.
- Về bảo vệ phôi và chăm sóc con: Từ đẻ trứng (nguồn chất dinh dưỡng cung cấp cho phôi phát triển bị giới hạn, sự phát triển của phôi phụ thuộc vào điều kiện môi trường) đến đẻ con (nguồn chất dinh dưỡng cung cấp cho phôi phát triển được cơ thể mẹ cung cấp liên tục, sự phát triển của phôi bớt phụ thuộc vào điều kiện môi trường); Từ sinh con ra không được chăm sóc, bảo vệ đến được chăm sóc, bảo vệ, được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ giúp tỉ lệ con non sống sót cao hơn.
→ Như vậy, chiều hướng tiến hoá của sinh sản hữu tính ở động vật theo hướng đảm bảo cho hiệu quả sinh sản ngày càng cao.
Câu 20.
Hormone FSH và LH ảnh hưởng đến quá trình phát triển, chín và rụng trứng như thế nào? |
Phương pháp giải:
Nếu FSH và LH không được tiết ra đầy đủ sẽ làm cho trứng không thể chín và rụng
Giải chi tiết:
Ảnh hưởng của hormone FSH và LH đến quá trình phát triển, chín và rụng trứng:
- FSH kích thích nang trứng phát triển và tiết ra estrogen.
- LH làm nang trứng chín và trứng rụng, hình thành thể vàng, thể vàng tiết ra progesterone và estrogen.
Nếu FSH và LH không được tiết ra đầy đủ sẽ làm cho trứng không thể chín và rụng.
Câu 21.
Quá trình sản xuất hormone FSH và LH bị rối loạn có ảnh hưởng đến trình sinh tinh và sinh trứng không? Tại sao? |
Phương pháp giải:
Quá trình sản xuất hormone FSH và LH bị rối loạn có ảnh hưởng lớn đến trình sinh tinh và sinh trứng
Giải chi tiết:
- Quá trình sản xuất hormone FSH và LH bị rối loạn có ảnh hưởng lớn đến trình sinh tinh và sinh trứng.
- Giải thích: Sở dĩ quá trình sản xuất hormone FSH và LH bị rối loạn có ảnh hưởng lớnđến trình sinh tinh và sinh trứng vì 2 hormone này có vai trò quan trọng trong cơ chế điều hoà sinh tinh và sinh trứng. Cụ thể:
+ Đối với quá trình sinh tinh, FSH có vai trò kích thích ống sinh tinh sản xuất tinh trùng; LH có vai trò kích thích tế bào kẽ tiết hormone progesterone – một loại hormone cũng có vai trò kích thích ống sinh tinh sản xuất tinh trùng.
+ Đối với quá trình sinh trứng, FSH có vai trò kích thích nang trứng phát triển và tiết ra estrogen; LH làm nang trứng chín và trứng rụng.
Câu 22.
Nuôi cấy phôi có vai trò gì trong chăn nuôi? |
Phương pháp giải:
Trong chăn nuôi, nuôi cấy phôi có vai trò giúp điều khiển số con ở động vật.
Giải chi tiết:
Trong chăn nuôi, nuôi cấy phôi có vai trò giúp điều khiển số con ở động vật. Trong đó:
- Nuôi cấy phôi có thể dùng để tạo ra nhiều cá thể con từ một cặp bố mẹ ban đầu (thường áp dụng đối với vật nuôi sinh sản chậm) bằng cách: Tiêm hormone thúc đẩy sự chín và rụng nhiều trứng cùng một lúc rồi lấy các trứng đó ra ngoài, cho trứng thụ tinh nhân tạo để thu được nhiều hợp tử. Giữ các hợp tử trong môi trường thích hợp bên ngoài cơ thể để các hợp tử phát triển thành phôi. Cấy các phôi này vào tử cung của một hoặc nhiều động vật cái để cho nhiều cá thể con.
- Nuôi cấy phôi có thể dùng để tạo ra được nhiều con cùng giới tính và giống hệt nhau chỉ từ một trứng đã thụ tinh bằng cách: Ở giai đoạn phôi hai, bốn hoặc tám tế bào, người ta tách các tế bào phôi thành từng tế bào riêng rẽ. Nuôi các tế bào phôi đó trong môi trường thích hợp để phát triển thành phôi mới, sau đó cấy riêng từng phôi mới vào tử cung của các động vật cái.
Câu 23.
Vì sao cần phải giáo dục dân số và giáo dục sức khoẻ sinh sản cho trẻ vị thành niên? |
Phương pháp giải:
Nếu dân số tăng cao quá mức, điều kiện sống của xã hội không đủ đảm bảo dẫn đến nghèo nàn lạc hậu.
Giải chi tiết:
- Phải giáo dục dân số vì: Nếu dân số tăng cao quá mức, điều kiện sống của xã hội không đủ đảm bảo dẫn đến nghèo nàn lạc hậu. Việc giáo dục dân số sẽ giúp mọi người có ý thức sinh đẻ có kế hoạch, nhờ đó, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống về vật chất và tinh thần đối với mọi thành viên trong gia đình, đồng thời, giúp ổn định dân số, giảm áp lực đối với phát triển kinh tế, xã hội, tài nguyên và môi trường.
- Phải giáo dục sức khỏe sinh sản cho trẻ vị thành niên vì: Vị thành niên là giai đoạn chuyển tiếp giữa độ tuổi trẻ em và tuổi trưởng thành, trong giai đoạn này, cơ thể có sự phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt như thể chất, sinh lí, tâm tư tình cảm,… Vì vậy, việc bảo vệ sức khoẻ sinh sản vị thành niên nếu không được chú trọng sẽ dẫn đến các nguy cơ như quan hệ tình dục sớm, quan hệ tình dục không an toàn, dễ bị xâm hại tình dục dẫn đến mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục kể cả HIV/AIDS, mang thai ngoài ý muốn, phá thai không an toàn,... Bởi vậy, việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho trẻ vị thành niên sẽ giúp trang bị những kiến thức đúng đắn về sức khoẻ sinh sản, từ đó, giúp trẻ vị thành niên bảo vệ được sức khoẻ sinh sản của bản thân, đảm bảo sự phát triển tâm lí, nhân cách bình thường và khả năng duy trì nòi giống trong tương lai của trẻ, đồng thời, ngăn chặn những gánh nặng có thể xảy ra cho gia đình và xã hội.