Phân tích bài Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan>
Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố...) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. "Chiều hôm nhớ nhà" là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng.
Dàn ý
1. Mở bài:
- Chiều hôm nhớ nhà Bà Huyện Thanh Quan đã khẳng định tài hoa thơ phú của mình.
- Nội dung: Bài thơ chứa một niềm tâm sự hoài cổ, nuối tiếc thời xưa được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả cảnh để bộc lộ tình của tác giả.
2. Thân bài:
- Giới thiệu: Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong thời kỳ cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Bà sáng tác thơ rất ít nhưng hầu hết những tác phẩm của bà đều có giá trị to lớn.
=> bộc lộ tài năng độc đáo của mình: sâu lắng, hoài cổ, buồn nhớ trong nỗi niềm tâm sự cùng với nghệ thuật đặc sắc "tức cảnh sinh tình" thật trang nhã, đầy hình tượng.
- Đặc sắc:
+ Ở bài thơ, ta đều bắt gặp một quang cảnh buồn, hoang vắng, cô tịch. Đó là cảnh buổi hoàng hôn tím sẫm, cái khoảng không gian và thời gian buồn, gợi nhớ nhất trong một ngày.
+ Cả hai bài thơ đều có hình ảnh con người nhưng chỉ thoáng bóng thôi, và quang cảnh chỉ có thế. Đó là những người dân lao động nghèo, vất vả làm ăn, sinh hoạt của họ thật tẻ nhạt, thiếu sinh động.
+ Bà luôn hoài cổ để chối bỏ thực tại và bày tỏ sự chán ghét thực tại. Đó là nỗi nhớ nước, nhớ nhà bà luôn giấu kín trong lòng
+ Trước cảnh, bà bộc lộ được niềm tâm sự của mình, một tâm sự hoài cổ, đầy nuối tiếc, muốn níu giữ những kỉ niệm xa xưa.
=> Chính nét đặc sắc đó về nội dung cũng như nghệ thuật "tức cảnh sinh tình" trong thơ bà đã nâng bà vượt lên, có một phong cách riêng, không thể lẫn vào đâu được với những Hồ Xuân Hương đầy trần tục mà rất Việt Nam, Nguyễn Du mang tư tưởng định mệnh... Tóm lại bà có một phong cách thơ rất đặc biệt.
3. Kết bài:
Qua Chiều hôm nhớ nhà Bà Huyện Thanh Quan đã khẳng định tài hoa thơ phú của mình. Hai bài thơ chứa một niềm tâm sự hoài cổ, nuối tiếc thời xưa được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả cảnh để bộc lộ tình của tác giả. Cả hai mặt nội dung và nghệ thuật hoà quyện vào nhau thật nhuần nhuyễn, điêu luyện, mang một sắc thái riêng biệt, đặc sắc.
Mẫu 1
Ai đã từng đọc "Truyện Kiều" chắc không thể nào quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn:
"Sông sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng".
Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ Nôm Việt Nam trong thế kỉ XIX:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".
Câu thơ đầu tả ánh hoàng hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ "bảng lảng" có giá trị tạo hình đặc sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều thấm buồn:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn".
Hai chữ "bảng lảng" là nhãn tự - như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết:
"Trời tây bảng lảng bóng vàng" (Truyện Kiều)
Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan.
Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn, buồn sao kể hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và) cùng tiếng trống đồn "xa đưa vẳng" lại. Chiều dài (tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy, đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn) tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn "
Phần thực và phần luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ được chọn lựa tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách... thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và sương, có "chim bay mỏi" ... Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của thi pháp cổ (người thì có: ngư, tiều; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong, sương, mai, liễu, cánh chim chiều...) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc.
Chiều tà, ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố (bến xa) với tâm trạng của một "ngư ông" - ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ "gác mái" biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát vòng danh lợi:
"Gác mái, ngư ông về viễn phố".
Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại "cô thôn", cử chỉ "gõ sừng" của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu đời.
"Gõ sừng mục tử lại cô thôn".
Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã vô cùng thân thuộc đáng yêu.
Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái lạnh lẽo, cô liêu, bơ vơ của người lữ khách trên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Trời sắp tối. Ngàn mái xào xạc trong "gió cuốn"; gió mỗi lúc một mạnh. Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang "bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ. Hai hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" là hai nét vẽ đăng đôi, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ”gió cuốn" và "sương sa", đang sống trong khoảnh khắc sầu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ:
"Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn".
Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết được những câu thơ rất thực miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế!
Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp: "Kẻ chốn
Chương Đài người lữ thứ". Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời nhà Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển tích ấy một cách sáng tạo. "Chương Đài" và "lữ thứ" trong văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. "Ai" là đại từ phiếm chỉ, nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. "Hàn ôn” là nóng lạnh, "nỗi hàn ôn" là nỗi niềm tâm sự. Người lữ thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết:
"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".
"Chiều hôm nhớ nhà" và "Qua Đèo Ngang" hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đó là chùm thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những tháng ngày nữ sĩ trên đường thiên lí vào kinh đô Huế nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Có thể coi đó là những bút kí - thơ vô cùng độc đáo. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố...) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. "Chiều hôm nhớ nhà" là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng,...
Loigiaihay.com
Mẫu 2
Trong làng thơ Việt Nam, có những nữ sĩ để lại cho thơ ca dân tộc những dấu ấn đẹp. Nếu thơ Hồ Xuân Hương tài ba, ngạo mạn thì thơ bà Huyện Thanh Quan lại trang nhã, trữ tình và duyên dáng. Đọc thơ bà, ta thấy nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ thật thanh cao đượm sự cô đơn, trống vắng. Một trong những bài thơ đó là tác phẩm Chiều hôm nhớ nhà. Tìm hiểu bài thơ ta sẽ thấy tài thơ điêu luyện của Bà:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn Gác mái, ngư ông về viễn phố Gõ sừng, mục tử lại cô thôn Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Ở hai câu đề, khoảng thời gian là trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn. Ánh sáng vẫn còn đó, nhưng chỉ còn là ánh lờ mờ của ngày tàn và đêm sắp tới. Câu thơ chỉ giới thiệu thời gian mà người đọc như cảm thấy cả không gian một vùng quê rộng lớn. Trước thiên nhiên ấy, giữa trời và đất, có một cái gì đó tràn ngập con người nhạy cảm. Buổi chiều là thời gian dễ buồn nhất và đó cũng là khoảng thời gian thường xuất hiện trong thơ của bà Huyện Thanh Quan. Con người trong cuộc sống hỗn độn, ồn ào vẫn có một lúc nào đó trở về với cái bình yên muôn thuở của thiên nhiên, về với chính lòng mình. Và lúc này chính là khoảnh khắc đó của nữ sĩ.
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Âm thanh từ xa vẳng đến như thúc giục, nhưng vẫn có cái trầm lặng trong đó báo hiệu cho mọi người: ngày sắp hết. Ta như gặp một nét thân quen, man mác của câu ca dao:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Tâm trạng của tác giả đã phần nào được ngầm hiểu trong cách lựa chọn thời gian, không khí và thanh âm. Trong cảnh chiều, trong tiếng gọi tàn ngày đó, con người hiện ra:
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Câu thơ với nhịp 2/5 làm cho ta có cảm giác hoạt động con người đang giảm dần, đang đi tới kết thúc. Phép đối rất chuẩn cùng với những từ Hán Việt đã góp phần tạo nên vẻ trang nhã, cổ kính của hai câu thơ gợi tả này. Trước cảnh thiên nhiên to lớn, con người thật nhỏ, yếu thế và có phần đơn độc. Đó cũng là đặc điểm của thơ Thanh Quan. Gặp cảnh và người ở đây ta không thể không liên tưởng đến cảnh và người.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Trong Qua đèo Ngang của cùng tác giả, cảnh và người đều vậy: lặng lẽ, đượm buồn. Ta có cảm giác nhà thơ cũng đang lặng lẽ, thẩn thờ. Và con đường trước mắt bà thì sao, hai câu luận đã vẽ ra khung cảnh:
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Khoảng đường trước mắt như vô tận. Chim bay mỏi mà chưa tới nơi, khách bước dồn mà chưa tới chốn. Con đường đi hay con đường đời đang dàn trải? Phép đối từng cặp hình ảnh ngàn mây dặm liễu, gió cuốn - sương sa, chim bay mỏi - khách bước dồn làm ý thêm nhấn mạnh. Những từ ngữ bước dồn, bay mỏi cho thấy tâm trạng chán chường, mỏi mệt của nhà thơ. Tâm trạng ấy tất dẫn đến hai câu thơ kết thúc:
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Không có ai để tâm sự, trời đất thì bao la, vắng lặng, trống trải, khiến tác giả quay về với nội tâm, với lòng buồn sẵn có của mình. Câu thơ cuối, vừa như một câu cảm, vừa như một câu hỏi. Ta đã từng bắt gặp những câu thơ tài ba đó trong thơ bà:
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
(Qua đèo Ngang)
Và
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
(Thăng Long hoài cổ)
Qua đó, ta càng hiểu được nỗi niềm tâm sự của tác giả. Mang tiếng nói của tầng lớp quý tộc phong kiến đang trên đường suy thoái, thơ Thanh Quan biểu hiện một khía cạnh tư tưởng của văn chương thế kỉ 18 - 19, phản ánh tâm tư của lớp nho sĩ chán nản bế tắc. Tiếng thơ đó cũng biểu hiện tâm trạng hoài cổ, thiết tha nhớ nhà Lê đã suy vi. Phải chăng đó cũng là tâm tình của tập đoàn phong kiến đã hết thời vàng son, hết vai trò lịch sử? Đặt bài thơ của nữ sĩ vào bối cảnh lịch sử như thế, ta có biểu hiện sâu thêm cái buồn trong lòng bà: cái buồn thời đại.
Thơ bà buồn, nhưng không vì thế mà mất vẻ đẹp gợi cảm. Trái lại, nhờ vậy càng tăng thêm phần đặc sắc. Thơ bà đẹp một cách trầm lặng như chính tâm hồn bà.
Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi đưa đến cho chúng ta những cảm xúc chân thành, đậm đà trước nét buồn thanh tao, đưa đến những suy nghĩa sâu xa hơn về con người và xã hội. Một bài thơ đóng lại nhưng còn mở ra, tạo nên một dư âm trong lòng người đọc.
Mẫu 3
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm văn chương đặc sắc, mang đậm tình cảm và hình ảnh đẹp về quê hương, về tuổi thơ và những kỷ niệm ngọt ngào. Bài thơ đã tạo nên một không gian tĩnh lặng, êm đềm, khiến người đọc như được trở về quá khứ, nhớ về những kỷ niệm đáng quý.
Bài thơ bắt đầu bằng câu "Chiều hôm nhớ nhà, nhớ quê hương", ngay từ đầu đã thể hiện sự nhớ nhung, tình cảm sâu sắc của tác giả đối với quê hương và tuổi thơ. Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng những từ ngữ đơn giản, gần gũi để tạo nên một hình ảnh thân thuộc, như "mái tranh", "đồng quê", "con đường", "ngôi nhà",... Những từ ngữ này không chỉ đơn thuần là mô tả mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc về quê hương, về tuổi thơ và những giá trị văn hóa truyền thống.
Bài thơ tiếp tục miêu tả những hình ảnh đẹp và tình cảm của tác giả với quê hương. Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng nhiều biểu tượng và hình ảnh như "cánh đồng", "cánh đồng lúa chín vàng", "cánh đồng bát ngát",... để tạo nên một không gian mộc mạc, yên bình và thân thuộc. Những hình ảnh này không chỉ đơn thuần là mô tả mà còn mang ý nghĩa về sự phồn thịnh, sự bình yên và sự gắn kết của người dân quê hương.
Bài thơ còn thể hiện sự nhớ nhung và tình cảm của tác giả với tuổi thơ. Bà Huyện Thanh Quan đã miêu tả những kỷ niệm đáng quý trong tuổi thơ như "đường đi học", "bàn ghế trường xưa", "bài hát tuổi thơ",... Những hình ảnh này không chỉ đơn thuần là mô tả mà còn chứa đựng nhiều kỷ niệm, nỗi nhớ và tình cảm sâu sắc của tác giả với những ngày tháng ngọt ngào đã qua.
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm văn chương đẹp, tạo nên một không gian tĩnh lặng, êm đềm và đầy tình cảm. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ đơn giản, gần gũi và những hình ảnh đẹp để miêu tả quê hương và tuổi thơ. Bài thơ đã gợi lên trong lòng người đọc những kỷ niệm đáng quý và những giá trị văn hóa truyền thống.
Mẫu 4
Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố...) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. "Chiều hôm nhớ nhà" là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng.
Ai đã từng đọc "Truyện Kiều" chắc không thể nào quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn:
"Sông sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng".
Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ Nôm Việt Nam trong thế kỉ XIX:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".
Câu thơ đầu tả ánh hoàng hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ "bảng lảng" có giá trị tạo hình đặc sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều thấm buồn:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn".
Hai chữ "bảng lảng" là nhãn tự - như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết:
"Trời tây bảng lảng bóng vàng" (Truyện Kiều)
Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan.
Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn, buồn sao kể hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và) cùng tiếng trống đồn "xa đưa vẳng" lại. Chiều dài (tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy, đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn) tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn "
Phần thực và phần luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ được chọn lựa tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách... thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và sương, có "chim bay mỏi" ... Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của thi pháp cổ (người thì có: ngư, tiều; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong, sương, mai, liễu, cánh chim chiều...) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc.
Chiều tà, ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố (bến xa) với tâm trạng của một "ngư ông" - ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ "gác mái" biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát vòng danh lợi:
"Gác mái, ngư ông về viễn phố".
Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại "cô thôn", cử chỉ "gõ sừng" của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu đời.
"Gõ sừng mục tử lại cô thôn".
Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã vô cùng thân thuộc đáng yêu.
Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái lạnh lẽo, cô liêu, bơ vơ của người lữ khách trên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Trời sắp tối. Ngàn mái xào xạc trong "gió cuốn"; gió mỗi lúc một mạnh. Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang "bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ. Hai hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" là hai nét vẽ đăng đôi, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ”gió cuốn" và "sương sa", đang sống trong khoảnh khắc sầu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ:
"Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn".
Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết được những câu thơ rất thực miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế!
Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp: "Kẻ chốn
Chương Đài người lữ thứ". Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời nhà Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển tích ấy một cách sáng tạo. "Chương Đài" và "lữ thứ" trong văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. "Ai" là đại từ phiếm chỉ, nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. "Hàn ôn” là nóng lạnh, "nỗi hàn ôn" là nỗi niềm tâm sự. Người lữ thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết:
"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".
"Chiều hôm nhớ nhà" và "Qua Đèo Ngang" hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đó là chùm thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những tháng ngày nữ sĩ trên đường thiên lí vào kinh đô Huế nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Có thể coi đó là những bút kí - thơ vô cùng độc đáo. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố...) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. "Chiều hôm nhớ nhà" là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng,...
Mẫu 5
Trong thế giới thơ Việt Nam, nữ sĩ đã để lại những dấu ấn đẹp, và Bà Huyện Thanh Quan là một trong số những nhà thơ nữ xuất sắc. So với tài năng ngạo mạn của Hồ Xuân Hương, thì thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại toát lên vẻ trang nhã, trữ tình và duyên dáng. Trong những bài thơ của bà, ta cảm nhận được không khí của nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ cao quý đượm sự cô đơn và trống vắng. Một trong những tác phẩm nổi bật của bà là "Chiều hôm nhớ nhà," nơi tài thơ điêu luyện của bà thể hiện rõ. Trời chiều rơi bóng lảng vào bức tranh hoàng hôn, khiến không gian trở nên ấm áp và tràn ngập cảm xúc. Tiếng ốc xa vang, như một điệu nhạc trống dồn, đưa đến âm thanh nhẹ nhàng, êm đềm, như chính là giọng hòa nhạc của tự nhiên. Gác mái, ngư ông về viễn phố, tạo ra hình ảnh của sự quay về, của sự bình yên sau những ngày lao động. Gõ sừng, mục tử lại cô thôn, như một nét văn hóa sâu sắc, làm nổi bật nét truyền thống trong cuộc sống của những người dân quê mùa. Cảnh tượng này không chỉ là hình ảnh mà còn là ký ức, là sự đậm chất văn hóa.
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi, mô tả một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, làm nổi bật sự mệt mỏi của đám chim sau những chặng đường dài. Bức tranh này không chỉ là về cảnh đẹp tự nhiên mà còn là về những nỗ lực, sự đối mặt với khó khăn của con người. Tất cả những hình ảnh này được Bà Huyện Thanh Quan sắp xếp một cách tinh tế, chọn từ ngữ một cách khéo léo, tạo nên một bức tranh thơ đầy ấn tượng và lôi cuốn. Thơ của bà không chỉ là sự sắp đặt các từ ngữ mà còn là sự thấu hiểu sâu sắc về tâm hồn con người và vẻ đẹp của tự nhiên. Đó chính là điểm mạnh của tài thơ điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan, để lại cho độc giả những trải nghiệm tâm linh sâu sắc và khó quên.
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Trong hai câu đề đầu tiên, Bà Huyện Thanh Quan tạo ra một không khí chiều tà bình yên và trữ tình, khiến người đọc cảm nhận được sự lảng mạng của hoàng hôn trên bảng trời. Dưới ánh ánh sáng dịu dàng, cảnh đẹp tự nhiên bắt đầu hiện lên với những gam màu ấm áp, làm nổi bật hình ảnh của một vùng quê yên bình. "Bảng lảng" tạo hình ảnh ánh sáng dịu dàng và lờ mờ, làm nổi bật không gian buổi chiều, nơi hoàng hôn bắt đầu chiếm lĩnh, và ánh sáng trở nên mềm mại. Sự lảng mạng này không chỉ là một đặc điểm của thời gian, mà còn là bức tranh tĩnh lặng của tự nhiên, tạo ra một không khí lãng mạn và dễ chịu.
Việc sử dụng "bảng lảng" cũng có thể ám chỉ đến bức tranh tự nhiên, cảnh đẹp mà Bà Huyện Thanh Quan muốn truyền đạt. Từ ngôn ngữ này, người đọc có thể hình dung ra cảnh đẹp của một vùng quê yên bình, với ánh hoàng hôn tạo nên bức tranh mộng mơ và huyền bí. Khi nói đến buổi chiều, tác giả thường thể hiện một sự buồn bã, một cảm giác lẻ loi và suy tư. Buổi chiều chính là khoảnh khắc tĩnh lặng, khi con người có thể tìm lại sự bình yên và cảm nhận được vẻ đẹp tĩnh lặng của thiên nhiên.
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Âm thanh từ xa vang đến như một lời thúc giục, nhưng vẫn giữ nguyên cái trầm lặng kỳ diệu, đó là dấu hiệu rõ ràng cho mọi người biết rằng ngày đã gần kết thúc. Trước bức tranh này, chúng ta như đang chạm vào một nét thân quen, hòa mình trong không khí man mác của những câu ca dao quê hương. Âm thanh đó không chỉ đơn giản là một âm thanh, mà như một cảm xúc, là một lời nhắc nhở về thời gian, về sự tạm biệt và kết thúc một ngày. Nó giống như những giai điệu lấp lánh của những câu ca dao, vô tình đánh thức những ký ức tĩnh lặng, những giây phút êm đềm dưới bóng chiều tà. Bức tranh này không chỉ đưa ta đến với thế giới âm thanh mà còn làm cho chúng ta ngửi thấy hương vị của quê hương, cảm nhận được sự chấm dứt của một ngày. Nó là một lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự trôi qua của thời gian, về vẻ đẹp trong sự tĩnh lặng và lòng nhẹ nhàng như những câu ca dao dân gian.
Trong bức tranh này, người đọc không chỉ nghe thấy âm thanh mà còn nhận thức được tâm trạng sâu sắc, cái gì đó thân quen và trải lòng như hòa mình vào câu chuyện của quê hương. Đó chính là sức mạnh của từ ngữ, biến những âm thanh bình dị thành những cảm xúc sâu sắc, làm cho bức tranh thơ trở nên sống động và gần gũi hơn với trái tim của người đọc.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Tâm trạng của tác giả được tinh tế thể hiện thông qua sự chọn lựa kỹ thuật văn hóa, tập trung vào thời điểm, không khí và âm thanh. Trong khung cảnh hữu tình của buổi chiều, qua tiếng gọi mỏi mòn của tàn ngày, tác giả đã khéo léo tái hiện tâm lý phức tạp và đầy nghệ thuật. Thời điểm chọn lọc là chiều tà, nơi ánh sáng chuyển dịch, và hoàng hôn bắt đầu chiếm lĩnh. Sự lựa chọn này không chỉ tạo ra bức tranh tự nhiên tuyệt vời mà còn chứa đựng sâu sắc nét buồn của tâm hồn tác giả. Sự lảng mạng của ánh sáng "bảng lảng" đã làm nổi bật không gian, tăng cường cảm nhận về vẻ đẹp mộng mơ và huyền bí. Tiếng gọi tàn ngày được mô tả một cách mở cửa rộng, không chỉ là âm thanh thông thường mà còn chứa đựng sự mệt mỏi và nhọc nhằn của cuộc sống. Sự lựa chọn này giúp tạo ra một không khí khó diễn đạt bằng từ ngữ, làm tăng cường hiệu ứng cảm xúc của bài thơ.
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Câu thơ với nhịp 2/5 như một nhịp điệu nhẹ nhàng, làm cho ta dễ dàng cảm nhận được sự giảm dần, bí hiểm và tĩnh lặng của hoạt động con người, như một bức tranh tĩnh lặng của cuộc sống dần dần chìm vào bóng tối. Phép đối được sử dụng một cách tinh tế, tạo nên một sự cân bằng đối xứng, chuẩn xác, giúp bức tranh thơ trở nên uyển chuyển và trang nhã. Những từ Hán Việt được lựa chọn kỹ lưỡng, như bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, không chỉ làm tăng thêm vẻ trang nhã và cổ điển mà còn làm cho người đọc hòa mình vào không khí tinh tế và huyền bí của bức tranh thơ. Đó chính là sự sáng tạo vô song của Bà Huyện Thanh Quan, khiến cho những từ ngữ không chỉ là mô tả, mà còn trở thành những hình ảnh sống động, níu giữ tâm trí và tình cảm của độc giả.
Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối, và có phần cô đơn. Sự đơn độc này không chỉ là của con người trước bản lãnh tự nhiên mà còn là của tâm hồn, khi mỗi bước chân của họ dường như trải qua những khoảnh khắc tĩnh lặng, giữa thế giới to lớn và vô tận của thiên nhiên. Điều này là nét đặc trưng của thơ Bà Huyện Thanh Quan, nơi con người và tự nhiên hòa mình vào một không gian tĩnh lặng và biểu tượng. Gặp cảnh và người ở đây, ta không thể không nhớ đến cảnh và người, như một liên tưởng tự nhiên, mở ra một thế giới tưởng tượng đẹp đẽ và lưu luyến. Đó chính là sức mạnh của từ ngữ và tưởng tượng trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, khiến cho độc giả không chỉ đọc thơ mà còn trải nghiệm và cảm nhận được sự đẹp tinh tế và sâu sắc của nghệ thuật thơ ca.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Trong tác phẩm "Qua Đèo Ngang" của cùng tác giả, cảnh và con người đều chìm đắm trong sự lặng lẽ và đượm buồn, tạo nên một không khí tĩnh lặng và u sầu. Trong từng câu thơ, ta có cảm giác như nhà thơ đang lặng lẽ, thẩn thờ, chìm đắm vào hồn quê, trong sự trầm tư và nghệ thuật biểu đạt tinh tế. Câu thơ khéo léo vẽ nên bức tranh của con đường trước mắt bà, làm cho độc giả hình dung được một không gian đầy lịch sử và nỗi nhớ. Hai câu thơ này như những bức tranh lặng lẽ, tĩnh mịch về con đường ngoằn nghèo, đầy những kỷ niệm, những chuyến đi, và những câu chuyện lịch sử. Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng từ ngữ một cách tinh tế, để làm cho từng chi tiết của con đường hiện lên như những dấu vết của thời gian, tô điểm bằng sự lặng lẽ và đọng lại trong lòng người đọc.
Nhà thơ không chỉ mô tả cảnh đẹp mà còn truyền đạt tâm hồn sâu lắng và nỗi nhớ thương của mình. Bức tranh không chỉ là hình ảnh mà còn là hồn quê, là sự khắc sâu của thời gian và ký ức. Nhà thơ lặng lẽ thẩn thờ giữa không gian quen thuộc, nơi mỗi chi tiết đều là một câu chuyện, một dấu ấn của quá khứ. Từng câu thơ trong "Qua Đèo Ngang" không chỉ là một mô tả, mà còn là một hành trình tìm về quê hương và chính mình. Sự lặng lẽ trong từng từ, từng hình ảnh làm cho độc giả không chỉ đọc mà còn trải qua cảm xúc, nhìn nhận sâu sắc về tình cảm và tâm trạng mà nhà thơ muốn truyền đạt.
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Trên con đường trước mắt, bao la như vô tận. Những chú chim bay mỏi mệt giữa bầu trời, dù đã hành trình mệt mỏi nhưng vẫn chưa đạt tới nơi đích. Nhưng cũng như những khách du lịch, mặc dù bước đi đều nhưng vẫn chưa đến được đích đến của họ. Những hình ảnh này là những phản ánh hình tượng sâu sắc về con đường của cuộc sống, hay còn gọi là con đường đời. Sự lặp lại của từ "mỏi mệt" và "bước dồn" không chỉ thể hiện sự chán chường và mệt mỏi của người thơ, mà còn làm nổi bật sự đối lập giữa nỗ lực và mệt mỏi trong cuộc hành trình của con người. Nơi đây, ngôn ngữ tinh tế của nhà thơ như một bức tranh vẽ nên bức hình về những đau khổ và khó khăn trên hành trình của cuộc sống.
Câu hỏi về con đường đi hay con đường đời đang dần mở ra một tầm nhìn triết học, đặt ra nghi vấn về ý nghĩa của cuộc sống và hành trình đi tìm kiếm ý nghĩa đó. Phép đối từng cặp hình ảnh như ngàn mây dặm liễu, gió cuốn, sương sa, chim bay mỏi, khách bước dồn là một sự tinh tế, làm tăng thêm sự huyền bí và nỗi mơ mộng của hành trình đời người.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Bên cạnh hình ảnh vô tận của trời đất bao la, như một không gian lớn và tĩnh lặng, tác giả lại đối mặt với sự vắng lặng và trống trải trong cuộc sống, khiến cho trái tim ông quay về với nội tâm, chìm đắm trong cảm xúc buồn bên trong. Không ai để tâm sự, nguyên cảnh thiên nhiên khổng lồ vẫn đọng lại trong sự lặng lẽ, tạo nên một bức tranh tĩnh mịch, đầy hòa mình vào sự cô đơn và buồn bã.
Câu thơ cuối cùng, với vẻ ngoài của một câu cảm, đồng thời chứa đựng sự nghiệp hỏi, làm cho độc giả đồng cảm và suy ngẫm. Nó không chỉ là một biểu hiện của tâm trạng cá nhân mà còn là một câu hỏi hòa mình vào không gian thơ của bà Huyện Thanh Quan. Câu thơ này như một điểm dừng, làm cho người đọc dừng lại và cảm nhận sâu sắc về sự đơn độc và hỏi về ý nghĩa của cuộc sống.
Những câu thơ tài ba của bà Huyện Thanh Quan không chỉ là biểu hiện của một nghệ sĩ mà còn là hình ảnh của một tâm hồn đang lững thững trước vẻ đẹp và sự bất biến của tự nhiên. Nó là sự nối kết giữa cảm xúc cá nhân và những vấn đề lớn lao về cuộc sống và tồn tại, làm cho thơ của bà không chỉ là tuyệt tác nghệ thuật mà còn là dấu vết sâu sắc của con người trước sự huyền bí và phức tạp của thế giới.
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
(Qua đèo Ngang)
Và
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
(Thăng Long hoài cổ)
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan không chỉ là một tác phẩm văn học đơn thuần mà còn là một tấm gương thấu hiểu tâm hồn, tư tưởng của những người phong kiến đang trải qua giai đoạn suy thoái. Cảm nhận của tác giả về nỗi buồn, sự chán nản, và tình cảm hoài cổ được thể hiện qua từng chi tiết nhỏ trong bài thơ. Qua từng đoạn văn, người đọc được đưa về thời kỳ lịch sử, nơi mà tầng lớp quý tộc đang trên đường suy thoái. Thơ Thanh Quan không chỉ là tiếng nói của lớp nho sĩ mà còn là bức tranh sống động về tâm trạng, tư tưởng của họ. Sự chán nản, bế tắc trong tình thế lịch sử được thể hiện rõ qua tiếng thơ. Điều này làm nổi bật tâm tư buồn bã, thiết tha nhớ về nhà cũ, và cảm giác hoài cổ về thời kỳ phồn thịnh đã qua.
Mặt khác, bài thơ không chỉ mang tâm trạng buồn nỗi mà còn là một tác phẩm đẹp đẽ, trầm lặng, phản ánh tâm hồn sâu sắc của tác giả. Bức tranh thiên nhiên, ánh chiều tà, tiếng đàn chime làm cho thơ trở nên đặc sắc và cuốn hút độc giả. Sự kết hợp này giúp bài thơ trở nên phong cách, không chỉ là tác phẩm tâm lý mà còn là tác phẩm nghệ thuật. Tóm lại, "Chiều hôm nhớ nhà" không chỉ là một bức tranh lịch sử mà còn là một tác phẩm thơ có độ sâu về tâm hồn con người, với sự kết hợp tinh tế giữa nỗi buồn, sự hoài cổ và vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bài thơ đọng lại nhưng lại mở ra nhiều cảm xúc và suy nghĩ, để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm trí độc giả.



