Tóm tắt, bố cục Văn 10 Kết nối tri thức hay nhất
Tóm tắt, bố cục, nội dung chính các tác phẩm SGK Văn 10.. Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Chùm thơ Hai - cư>
Tóm tắt, bố cục, nội dung chính, văn bản Chùm thơ Hai - cư giúp học sinh soạn bài dễ dàng, chính xác.
Tóm tắt
Mẫu 1
Chùm thơ hai-cư đem đến cho bạn đọc những ấn tượng về hình thức ngắn gọn, giản dị nhưng chan chứa những ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Mượn hình ảnh của tự nhiên, vạn vật, bằng cách gợi tả độc đáo, tác giả đã gửi gắm tình yêu thiên nhiên, lẽ sống của con người.
Mẫu 2
Chùm thơ Haiku Nhật Bản mở ra một cấu trúc cảm xúc tinh giản mà sắc lạnh qua ba khoảnh khắc thiên nhiên. Hình ảnh quạ đậu trên cành khô trong chiều thu gợi một không gian trống trải nơi tĩnh lặng bao trùm cảnh vật. Bầu trời như dồn lại thành một nhịp thở chậm, tạo nên dư vang cô quạnh. Bài thơ thứ hai đưa người đọc đến giếng nước nơi hoa triêu nhan bất ngờ trở thành kẻ chen vào đời sống thường nhật. Sự vương vấn mong manh của cánh hoa khiến dòng nước vốn quen thuộc trở nên mềm mại. Lời xin nước nhà bên hé lộ một thái độ nhún nhường trước vẻ đẹp phù du. Bài thơ thứ ba chuyển cảnh sang một thách thức lớn lao khi con ốc nhỏ nhích từng bước trên thân núi Fuji. Sự chậm rãi ấy mở ra triết lí về ý chí kiên trì. Độ cao của núi tương phản với thân xác bé mọn của ốc tạo nên cảm giác về sức mạnh của nỗ lực. Ba bài thơ góp lại thành một chỉnh thể thi cảm giàu hàm ý. Chúng tái hiện một thế giới nơi cái nhỏ bé vẫn hàm chứa khả năng thức tỉnh tâm hồn.
Mẫu 3
Chùm thơ gợi lại truyền thống thẩm mỹ Haiku qua những hình ảnh tối giản mà giàu rung động. Con quạ đậu trên cành khô phác họa chiều thu bằng sự đối diện giữa tĩnh và động. Chiếc bóng đen của quạ như nhấn mạnh vào độ tàn phai của thiên nhiên. Đến bài thơ về giếng nước, sắc hoa triêu nhan chen giữa dây gàu làm hiện lên cảm giác ngỡ ngàng. Sự mỏng manh của cánh hoa đặt cạnh nhu cầu sinh hoạt đời thường gợi nên một nhịp giao cảm nhẹ nhàng. Lời xin nước từ nhà bên là một biểu hiện của sự thuận theo tự nhiên. Bài cuối đưa người đọc đến ngọn Fuji khi con ốc bé xíu chậm rãi di chuyển. Sự kiên định trong nhịp bò tạo nên một tỉ lệ thẩm mỹ bất ngờ giữa cái vĩ đại và cái vi mô. Cảnh tượng ấy khơi mở tinh thần vươn lên không ngừng. Ba bài Haiku trở thành ba lát cắt bộc lộ chiều sâu thiền vị của thơ Nhật Bản.
Xem thêm
Mẫu 4
Cấu trúc ba bài thơ như một chuỗi ba dòng chảy cảm xúc liên tục. Quạ trên cành khô dựng nên sắc thái hoang vắng của chiều thu. Không gian khô xác được tái hiện qua hai mảng màu tương phản giữa ánh chiều và bóng chim. Bài thơ thứ hai dừng lại ở giếng nước, nơi cánh hoa triêu nhan phủ một vẻ dịu nhẹ lên sinh hoạt đời thường. Hình ảnh dây gàu vương hoa nhấn mạnh sự bất ngờ của tự nhiên. Người lấy nước đành xin nước nhà bên cho thấy sự nhường bước trước vẻ đẹp thoáng qua. Bài thơ thứ ba nâng tầm triết lí khi đặt con ốc nhỏ trước hành trình trèo núi Fuji. Cuộc chuyển động chậm rãi ấy phản chiếu chân lí về sự bền bỉ. Sự tương phản kích thước mở ra một chiều nhìn sâu về nỗ lực sống. Cả ba bài thơ kết hợp thành một hợp âm tinh tế của tĩnh lặng và minh triết.
Mẫu 5
Ba bài Haiku tạo nên một chuỗi ba khoảnh khắc giàu ấn tượng thị giác. Con quạ dừng lại trên cành khô gợi một chiều thu thanh đạm. Bóng dáng cứng cỏi của nó làm nổi bật sự xao xác của cảnh vật. Bài thơ về giếng nước đem đến một chuyển động mềm mại khi hoa triêu nhan vô tình chạm vào dây gàu. Sự xuất hiện bất ngờ của sắc hoa khiến dòng nước thường nhật trở nên thi vị. Lời xin nước từ nhà khác cho thấy sự trân trọng điều mong manh. Bài thứ ba thể hiện tầm nhìn khác khi theo dõi con ốc nhỏ leo lên Fuji. Nhịp bò như một phép ẩn dụ về sự nhẫn nại. Núi cao sừng sững và thân hình bé bỏng của ốc tạo nên một đối trọng đầy suy nghiệm. Ba bài thơ kết lại bằng âm hưởng nhẹ mà sâu.
Mẫu 6
Chùm thơ mở đầu bằng hình tượng quạ đậu trên cành khô làm nền cho chiều thu phai sắc. Không gian ấy gợi ra một trường cảm xúc tĩnh lặng. Bài thơ thứ hai khai triển vẻ đẹp mỏng manh của hoa triêu nhan khi nó vướng vào dây gàu bên giếng. Cánh hoa làm gián đoạn một hành động quen thuộc. Lời xin nước nhà bên hé lộ sự khiêm nhường trước sự ngẫu nhiên của tự nhiên. Đến bài thứ ba, nhịp chậm của con ốc đặt trước ngọn Fuji khổng lồ mở ra cái nhìn về thời gian. Sự chậm rãi ấy lại trở thành thước đo kiên trì. Bối cảnh hùng vĩ nâng bước đi nhỏ bé thành hành trình đáng ngẫm. Ba bài thơ khép lại bằng niềm kính trọng dành cho vẻ đẹp giản dị của thiên nhiên.
Mẫu 7
Hình ảnh quạ trên cành khô trong bài mở đầu khắc họa cảm giác thu sang với sự tàn úa dịu nhẹ. Tĩnh lặng của cảnh vật tạo độ sâu cho cái nhìn chiêm nghiệm. Sang bài về giếng nước, hoa triêu nhan xuất hiện như một kẻ lữ hành tình cờ dừng lại. Cánh hoa làm dây gàu trở nên mềm mại và đem đến một phút giây ngỡ ngàng. Lời xin nước từ nhà kế bên thể hiện sự thuận theo cái đẹp. Bài thơ con ốc trên núi Fuji đưa người đọc vào hình ảnh nỗ lực vượt giới hạn. Con ốc chậm rì nhưng vững vàng. Trước độ cao thăm thẳm, nó vẫn tiến lên như một tuyên ngôn sống. Chùm ba bài thơ cho thấy tinh thần chiêm ngưỡng thiên nhiên của Haiku Nhật Bản.
Mẫu 8
Ba bài thơ góp phần tạo nên một đồ hình cảm xúc liên tiếp. Chiều thu hiện ra qua cái nhìn của bóng quạ trên cành khô. Sự lạnh lẽo nhẹ nhàng bao trùm không gian. Ở bài thơ thứ hai, hoa triêu nhan chạm vào dây gàu khiến việc lấy nước trở thành một nghi lễ của sự ngắm nhìn. Người thơ như tôn trọng sự sống mong manh của hoa. Lời xin nước từ nơi khác gợi thái độ hiền hòa. Bài thứ ba giữ nhịp bằng hình tượng con ốc vượt núi Fuji. Chuyển động chậm gần như thiền định. Núi cao trở thành phông nền cho sự bền bỉ. Ba bài Haiku tạo nên một hệ thống biểu tượng giàu tính suy tưởng.
Mẫu 9
Chùm thơ Haiku Nhật Bản kiến tạo một trường cảm thụ thẩm mỹ dựa trên ba khoảnh khắc cực tiểu nhưng giàu năng lực gợi mở. Bài thơ thứ nhất tái hiện chiều thu qua hình bóng quạ đậu trên cành khô, nơi toàn bộ cảnh giới thu được nén lại trong một điểm tĩnh tuyệt đối. Sự kiệm lời khiến đường biên của không gian trở nên mơ hồ, như thể sắc thu được định hình bởi chính im lặng. Sang bài thơ thứ hai, hình tượng hoa triêu nhan dính vào dây gàu tạo ra sự xen cài giữa thế giới tự nhiên và hoạt động thường nhật. Sự ngỡ ngàng trước cánh hoa mong manh dẫn người đọc vào một trạng thái nhân nhượng với vẻ đẹp phù du. Lời xin nước từ nhà bên mang sắc thái của một nghi thức tôn trọng đời sống vi tế. Bài thơ cuối về con ốc nhỏ bò lên Fuji mở rộng biên độ triết học khi đặt cái vi mô trước sự đồ sộ của vũ trụ. Nhịp bò chậm rãi trở thành phép biện chứng về thời gian. Ba bài thơ cùng nhau kiến tạo một mô hình mỹ học nơi cái nhỏ nhất lại chạm tới chiều sâu của bản thể.
Mẫu 10
Chùm thơ trình hiện một dòng tri giác mang dấu ấn thiền tính thông qua ba tình huống tinh giản. Bóng quạ đậu trên cành khô không chỉ khơi dậy cảm giác thu tàn mà còn mở ra một ý thức mới về sự suy giảm của ánh sáng. Cảm giác trơ trụi khiến cảnh vật như đang bước vào một chu trình tĩnh hóa. Bài thơ thứ hai đưa con người vào tương tác tinh tế giữa hoa triêu nhan và giếng nước, nơi cái đẹp mỏng manh can thiệp vào hành vi thường nhật. Sự vướng víu của cánh hoa khiến người lấy nước phải điều chỉnh cách cư xử, qua đó khơi dậy một đạo lí thẩm mỹ về sự nhún nhường trước tự nhiên. Lời xin nước từ nhà bên không chỉ là hành động thực mà còn là một lựa chọn đạo đức. Ở bài thứ ba, con ốc nhỏ tiến lên núi Fuji tạo ra một bối cảnh đối chiếu giữa sức nặng của không gian và sự bền bỉ của sinh thể bé nhỏ. Hành trình chậm rãi ấy phác họa một triết học nỗ lực. Cả ba bài thơ tạo thành một bản đồ nội cảm giàu chiều suy nghiệm.
Mẫu 11
Ba bài Haiku kiến tạo một tam giác thẩm mỹ dựa trên cơ chế cực tiểu của nghệ thuật. Hình ảnh quạ trên cành khô trong bài đầu tiên xác lập một hệ quy chiếu về thời gian khi buổi chiều thu trở nên đậm đặc hơn nhờ sự đứng yên tuyệt đối của chim. Sự tàn phai của lá và ánh sáng được đặc tả qua sự im lặng. Bài thơ thứ hai đặt hoa triêu nhan vào trạng thái can thiệp bất ngờ vào đời sống con người. Cánh hoa chạm vào dây gàu khiến ranh giới giữa cái hữu dụng và cái thuần túy thẩm mỹ trở nên linh hoạt. Lời xin nước từ nhà bên biểu hiện một nguyên tắc sống thuận tự nhiên. Bài thơ cuối hướng tầm nhìn về núi Fuji, nơi con ốc nhỏ kiên trì tiến lên trong sự chậm rãi tuyệt đối. Nhịp chuyển động tí hon lại làm nổi bật chiều cao khổng lồ của núi. Sự đối sánh ấy biến bài thơ thành biểu tượng của ý chí nội tại. Chùm thơ từ đó thiết lập một kinh nghiệm về sự chiêm nghiệm trong im lặng.
Mẫu 12
Chùm thơ Haiku tạo ra ba trường nhìn khác biệt nhưng thống nhất ở cảm thức tinh giản. Ở bài thơ đầu tiên, quạ đậu trên cành khô làm hiển lộ chất tàn úa của chiều thu dưới dạng một đường nét đen cắt ngang không gian. Chính sự co cụm của hình ảnh làm nổi bật khí hậu trầm lắng của mùa. Bài thơ thứ hai đặt hoa triêu nhan vào khoảnh khắc giao cắt với dây gàu, qua đó hé lộ sự va chạm tinh tế giữa tự nhiên và hành vi sinh hoạt. Lời xin nước từ nhà bên mang sắc thái của một mỹ học khoan hòa. Bài thứ ba xoay trục sang một biểu tượng lớn khi con ốc nhỏ tiến lên Fuji. Hành trình bé nhỏ này làm bật ra sự tương phản của tầm vóc. Nhịp di chuyển chậm rãi lại khiến toàn bộ núi hiện ra như một nền tĩnh. Sự đối lập kích thước tạo chiều sâu suy nghiệm. Ba bài kết hợp thành một cấu trúc thi cảm trang nhã.
Mẫu 13
Chùm thơ mở ra một hệ thống biểu tượng nhỏ nhưng có sức khuếch tán lớn. Bài thơ thứ nhất sử dụng hình ảnh quạ đứng trên cành khô để nén lại toàn bộ sắc thái chiều thu trong một cảnh tĩnh. Sự tàn phai của thiên nhiên được phản chiếu qua bóng chim bất động. Bài thơ thứ hai khiến sinh hoạt thôn dã trở nên mềm mại khi hoa triêu nhan bất ngờ xuất hiện trên dây gàu. Khoảnh khắc ấy gợi ra một mỹ học của sự gián đoạn nhẹ nhàng. Lời xin nước từ nhà bên cho thấy sự nhường nhịn trước vẻ đẹp hữu hạn. Ở bài thứ ba, con ốc nhỏ tiến lên Fuji làm rõ triết lí về sự nỗ lực. Sự chậm rãi ấy lại mở ra nhận thức về sức bền. Không gian hùng vĩ càng khiến hành trình của sinh thể nhỏ bé mang tính biểu tượng. Ba bài thơ vì vậy tạo thành một phức hợp cảm xúc mang sắc thái thiền.
Mẫu 14
Chùm Haiku này vận hành trên cơ chế giảm thiểu từ ngôn ngữ để mở rộng tối đa các tầng nghĩa. Bài thứ nhất đem lại cảm nhận về chiều thu bằng hình ảnh quạ đậu trên cành khô, nơi cái trơ trụi trở thành chất liệu của thi cảm. Sự cô đặc của hình ảnh làm thời gian như ngưng lại. Bài thơ thứ hai xuất hiện với hoa triêu nhan dính vào dây gàu, tạo nên khoảnh khắc giao cảm giữa người và hoa. Một hành động quen thuộc bị làm chậm bởi sự hiện diện của tự nhiên. Lời xin nước từ nhà bên cho thấy một dạng đạo lí thẩm mỹ. Bài thứ ba đưa người đọc đến sự kiên trì của con ốc bò lên Fuji. Đường đi nhỏ bé này lại gợi ra tầm vóc lớn lao của ý chí. Cả ba bài đều mở ra những pha suy tưởng trầm lắng trong tinh thần thiền quán.
Mẫu 15
Chùm thơ kiến lập ba tầng không gian có liên hệ mật thiết với triết lí vô niệm của Haiku. Bài đầu tiên phác họa chiều thu qua bóng chim dừng lại trên cành khô, tạo ra cảm giác thu được làm đặc trong một khoảnh khắc. Bề mặt thiên nhiên như lộ rõ cấu trúc mong manh của nó. Bài thơ thứ hai đặt hoa triêu nhan vào giao điểm với dây gàu. Cái đẹp thoáng qua có khả năng điều chỉnh hành vi thường nhật. Người lấy nước chọn thuận theo sự tinh tế ấy bằng lời xin nước từ nhà khác. Bài thơ cuối mở ra chiều kích của nỗ lực khi con ốc nhỏ di chuyển trên một ngọn núi vĩ đại. Nhịp bò chậm khiến thời gian trở nên hữu hình. Núi Fuji từ đó trở thành một phông nền triết học. Cả ba bài tạo nên một kinh nghiệm thẩm mỹ giàu tính chiêm niệm.
Mẫu 16
Chùm thơ Haiku Nhật Bản kiến tạo một hình thức tri giác giàu chiều sâu khi ba bài thơ cùng vận hành theo nguyên lí nén cảm xúc vào hình tượng tối giản. Quạ đậu trên cành khô trong chiều thu đem lại một thực tại cô tịch như thể thiên nhiên tự tri nhận sự lão hóa của chính nó. Cái im lìm của cảnh vật trở thành điểm tựa cho cảm thức trầm tư. Đến bài thơ thứ hai, hoa triêu nhan bất ngờ dính vào dây gàu khiến không gian giếng nước vốn bình thường bỗng hiện lên như một cõi giao cảm nơi cái đẹp chen vào lao động hằng ngày. Sự vướng nhẹ ấy làm thay đổi hành vi của con người khi lời xin nước từ nhà bên hàm ý một sự nhường nhịn mang màu sắc đạo lí. Bài thơ cuối đưa cái nhìn đến hành trình của con ốc nhỏ đang bò lên núi Fuji trong một nhịp điệu chậm rãi nhưng bền bỉ. Sự chênh lệch kích thước giữa sinh vật bé mọn và ngọn núi khổng lồ gợi ra một dạng triết học về nghị lực. Chùm thơ từ đó trở thành một cấu trúc của suy nghiệm nội tâm. Mỗi khoảnh khắc đều dẫn người đọc đến nhận thức rằng cái vi mô có thể mở ra một vũ trụ ý nghĩa lớn hơn hình dạng của chính nó.
Mẫu 17
Chùm Haiku này hình thành một chuỗi ba cảnh giới có chức năng khai mở tinh thần thiền quán. Bắt đầu bằng hình ảnh quạ đứng trên cành khô, bài thứ nhất gợi ra một chiều thu được thu nhỏ thành một điểm tĩnh không tiếng động. Quạ trở thành vạch đen đối lập với khoảng không nhạt màu phía sau. Ở bài thứ hai, cánh hoa triêu nhan xuất hiện như một yếu tố ngoài dự liệu khi nó vướng lại trên dây gàu, tạo nên sự thay đổi trong thao tác múc nước. Động tác xin nước từ nhà khác cho thấy con người sẵn sàng lui lại để gìn giữ vẻ đẹp ngắn ngủi. Hoa từ đó trở thành biểu tượng của sự dịu dàng mà tự nhiên ban phát. Sang bài thơ về con ốc leo núi Fuji, nhịp chuyển động chậm gần như bất động lại mang giá trị khẳng định sức mạnh nội tại. Mỗi bước của ốc như kéo dài thời gian khiến người đọc ý thức rõ hơn về độ sâu của khoảnh khắc. Chùm thơ kết hợp ba hình ảnh tạo nên một cấu trúc đầy suy tưởng về quan hệ giữa cái nhỏ và cái lớn.
Mẫu 18
Trong chùm thơ Haiku này, ba bài thơ hợp thành một diễn trình tri giác được điều khiển bởi tinh thần tối giản. Bài thơ đầu tiên miêu tả quạ đậu trên cành khô như một đường nét đánh dấu sự chuyển mùa, khi chiều thu lộ ra trong sự trơ trụi và suy tàn. Không khí vắng lặng được nén lại trong dáng chim đứng yên. Bài thơ thứ hai chuyển sang cảnh giếng nước nơi hoa triêu nhan bất ngờ xuất hiện trên dây gàu, tạo nên một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa cái đẹp và sinh hoạt đời thường. Hành động xin nước nhà bên phản ánh sự trân trọng dành cho vẻ đẹp phù du. Cánh hoa không chỉ che dòng nước mà còn làm dịu cả tâm thế con người. Bài thơ thứ ba đưa hình ảnh con ốc nhỏ lên vị trí trung tâm khi nó bò lên núi Fuji trong nhịp độ kiên trì. Hình ảnh ấy đẩy người đọc đến suy ngẫm về sức mạnh của ý chí trong bối cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Sự chậm rãi biến thành chất liệu của một triết học sống. Chùm thơ do đó mang tính giáo huấn nhẹ nhàng mà sâu kín.
Mẫu 19
Ba bài Haiku trong chùm thơ này tạo lập một không gian ngữ nghĩa xoay quanh ba cấp độ của cái tĩnh. Quạ đứng trên cành khô tạo ra cảm giác thu đã bước vào trạng thái tiêu giảm ánh sáng. Bóng chim trở thành điểm nhấn làm sắc mạnh hơn ý niệm hoang vắng. Bài thơ thứ hai đưa vào trường nhìn một chuyển động mềm khi hoa triêu nhan chạm vào dây gàu. Sự xuất hiện tình cờ đó khiến nhịp sinh hoạt thay đổi và thúc đẩy lời xin nước từ nhà bên như một hành động thuận theo tự nhiên. Bài thơ thứ ba thay đổi quy mô khi mô tả con ốc nhỏ đang tiến lên Fuji bằng nhịp điệu chậm không thể đo đếm. Sự kiên trì ấy trở thành lời khẳng định tinh thần sống bền bỉ. Ngọn núi cao rộng như một phông nền tôn lên sự sống nhỏ bé nhưng không lùi bước. Chùm thơ vì vậy mở ra một nhận thức rằng cái chậm và cái nhỏ có thể chất chứa sức mạnh lớn.
Mẫu 20
Ba bài Haiku hợp thành một cấu trúc cảm xúc dồn nén biểu hiện qua sự tiết chế ngôn từ. Bài thứ nhất tập trung vào hình tượng quạ đậu trên cành khô, nơi cảnh thu được thu vào một khoảnh khắc ngưng đọng. Đường nét của quạ làm nền cho cảm giác tàn phai. Bài thơ thứ hai lại mở ra một sự tiếp xúc nhẹ nhàng giữa hoa triêu nhan và dây gàu, cho thấy vẻ đẹp vốn không có chủ thể vẫn đủ sức làm con người thay đổi hành vi. Lời xin nước từ nhà kế bên mang tính chất tôn trọng tự nhiên. Cánh hoa trở thành dấu hiệu báo trước một sự chăm chú hiếm có. Bài thơ thứ ba hướng đến hình tượng con ốc đang bò lên Fuji, cho thấy thời gian có thể được cảm nhận qua nhịp độ rất chậm. Sự kiên nhẫn biến hành trình nhỏ thành một tượng trưng của nghị lực. Chùm thơ như một tấm gương phản chiếu các cung bậc tinh tế của đời sống.
Mẫu 21
Chùm thơ này tựa như một phương trình thi giác được cấu tạo từ ba hình ảnh mang tính biểu tượng cao. Quạ đậu trên cành khô tái hiện sự trầm lặng của buổi chiều thu như một bức tranh bị gió thời gian làm xói mòn. Bóng chim trở thành dấu lặng của thiên nhiên. Bài thơ thứ hai chuyển tầm quan sát sang giếng nước nơi hoa triêu nhan bám vào dây gàu tạo ra một sự gián đoạn đầy duyên dáng đối với thao tác thường ngày. Lời xin nước từ nhà khác là sự lựa chọn mang tính đạo đức của một người muốn giữ gìn vẻ đẹp ngắn ngủi. Hoa được trao cho vai trò của một kẻ thuyết phục thầm lặng. Bài thơ thứ ba lại mở màn cho một cuộc đối chứng giữa cái nhỏ và cái lớn khi con ốc nhỏ đang bò lên Fuji. Nhịp bò không chút vội vã mở ra ý niệm về sức mạnh tinh thần. Cả ba bài thơ tạo ra một dòng chảy hàm súc của tư duy phương Đông.
Mẫu 22
Chùm thơ Haiku Nhật Bản kiến tạo một hành trình tri giác được dẫn dắt bởi sự thu nhỏ của thế giới cảm quan vào các mảnh khoảnh khắc chứa lượng thông tin tối thiểu nhưng phát sáng từ bên trong. Bài thơ đầu tiên dựng nên khung cảnh chiều thu bằng hình tượng quạ đậu trên cành khô, nơi sắc lạnh của không gian được tinh chế thành một đường đen tĩnh mịch chứng thực cho sự suy tàn của mùa. Sự bất động của quạ mang theo âm hưởng của triết học vô thường. Bài thơ thứ hai đưa người đọc đến sự giao cắt giữa cái đẹp mong manh và sinh hoạt thường ngày khi hoa triêu nhan vướng vào dây gàu, tạo ra sự dao động nhẹ giữa ý thức thẩm mỹ và hành vi thực dụng. Lời xin nước từ nhà bên được cảm nhận như một cách hạ thấp cái tôi để ưu tiên đặc quyền của cái đẹp mong manh. Hoa ở đó vừa vô tư vừa như một lời triệu gọi người đọc nhìn thế giới bằng sự tôn kính. Bài cuối cùng phóng chiếu cái nhìn lên chiều cao của Fuji, nơi con ốc nhỏ chậm rãi tiến bước trong một nhịp độ gần như hòa tan vào thời gian. Sự đối lập về tỷ lệ gợi ra một triết học của nỗ lực khi cái bé nhỏ vẫn tồn tại kiên định trong vũ trụ rộng lớn. Chùm thơ vì vậy trở thành một hệ thống thi giác về sự tồn tại bền bỉ của những điều tinh vi.
Mẫu 23
Trong chùm thơ này, nghệ thuật Haiku vận hành như một cơ chế chiếu sáng tinh thần bằng việc lược bỏ mọi yếu tố thừa, để các hình tượng tự phát huy chiều sâu của chúng trong tĩnh lặng. Mở đầu bằng hình ảnh quạ đứng trên cành khô, bài thơ thứ nhất xác lập một bức tranh thu vừa u tịch vừa gợi cảm về sự lão hóa của thời gian. Một đường nét đơn độc có thể gói trọn khí vị của cả mùa. Đến bài thơ thứ hai, hoa triêu nhan chạm vào dây gàu đánh thức nhận thức của con người về sự mong manh của vẻ đẹp. Khoảnh khắc ấy phá vỡ thói quen múc nước và gieo vào hành động xin nước từ nhà bên một phẩm chất đạo lí. Chính sự tạm dừng trước cái đẹp cho thấy con người được nâng lên trong ý thức. Bài thơ thứ ba lại xoáy sâu vào triết học của nhịp chậm khi con ốc nhỏ đi lên Fuji, một quá trình dường như thách thức cảm quan về tốc độ. Sự tiến lên của ốc là biểu tượng cho ý chí bất khuất trước không gian vĩ đại. Ba bài thơ hợp thành một đường dây tư tưởng tỉnh thức.
Mẫu 24
Chùm thơ Haiku Nhật Bản này trình bày ba mô thức tiếp cận hiện thực trong đó thế giới được nắm bắt không bằng sự phân tích tuyến tính mà bằng trực giác khoảnh khắc. Bài thơ thứ nhất sử dụng cảnh quạ đậu trên cành khô để truyền dẫn cảm giác thu đã đạt đến điểm cực hạn của sự lặng im. Màu sắc và âm thanh dường như bị rút khỏi khung cảnh. Bài thơ thứ hai lại thắp lên ngọn lửa của sự dịu dàng khi hoa triêu nhan vướng vào dây gàu, khiến nhịp sống thường ngày chịu một cú chạm mềm dẫn đến hành động xin nước từ nhà bên. Con người qua đó được đặt vào vị trí của kẻ phải nhường nhịn trước vẻ đẹp tạm bợ nhưng quý giá. Cánh hoa trở thành điểm hội tụ của đạo lí thẩm mỹ. Sang bài thứ ba, con ốc nhỏ bò lên Fuji tạo nên một nghịch lý giữa vi mô và vĩ mô. Sự chậm rãi như kéo dài vô hạn làm hiện rõ sự gan lì của sự sống. Ba bài thơ khép lại bằng sự hội tụ của kiên trì, nhún nhường và tĩnh lặng như những phẩm chất cốt lõi của tinh thần Haiku.
Mẫu 25
Trong chùm thơ này, năng lực thẩm mỹ của Haiku được thể hiện qua sự quy tụ của ba cảnh tượng mang vẻ đẹp của tính chớp nhoáng và triết lí vô ngôn. Hình ảnh quạ đậu trên cành khô phác họa chiều thu trong một dạng hình học tinh khiết, nơi bóng chim làm bản đồ của sự tàn úa. Không lời bình nào xuất hiện nhưng sắc thu đã được định vị. Đến bài thơ thứ hai, hoa triêu nhan vướng vào dây gàu tạo nên một ngữ cảnh đặc biệt khi cái đẹp chen vào hành vi thường nhật, buộc con người lùi lại trong nhã nhặn. Lời xin nước từ nhà bên trở thành biểu hiện của sự tôn trọng dành cho tự nhiên. Sự rung nhẹ của cánh hoa mở ra cả một trường suy tưởng về cái mong manh. Bài thơ thứ ba đưa vào trọng tâm hình ảnh con ốc nhỏ đang đối diện với độ cao của Fuji trong sự chậm rãi gần như mặc khải. Hành trình ấy phá bỏ giới hạn của cái bé nhỏ. Ba bài Haiku như ba khoảnh khắc hội tụ ánh sáng nội tâm của người đọc.
Mẫu 26
Chùm thơ Haiku Nhật Bản đạt đến độ tinh luyện cao nhất khi mỗi bài thơ trở thành một hạt nhân của sự chiêm nghiệm, chứa đựng những mô đun ý nghĩa dày đặc trong cấu trúc ngắn gọn. Ở bài thơ đầu tiên, quạ đậu trên cành khô phác họa chiều thu như một giai đoạn trầm cảm của thiên nhiên, nơi mọi chuyển động bị kìm lại để tạo nên một trường lặng. Sự tĩnh mịch cho phép người đọc nghe được tiếng nói sâu bên trong của mùa. Bài thơ thứ hai đưa hoa triêu nhan vào vị trí trung tâm khi nó mắc vào dây gàu, gây ra một sự gián đoạn nhẹ nhưng đầy tính gợi mở đối với hoạt động múc nước. Hành động xin nước từ nhà bên như một biến thể của ý thức tôn trọng vẻ đẹp mong manh. Hoa trở thành nhân chứng cho tình cảm tinh tế giữa người và tự nhiên. Bài thơ cuối mở rộng biên độ triết học khi miêu tả con ốc nhỏ leo lên Fuji, một khoảnh khắc trong đó ý chí con người được ví với sự kiên định của sinh vật nhỏ bé. Nhịp chậm của ốc buộc người đọc nhìn lại tốc độ của chính mình. Chùm thơ nhờ thế hiện ra như một bản minh triết cô đặc của văn hóa Nhật Bản.
Bố cục
Văn bản chia làm 3 phần:
- Phần 1: Bài thơ số 1: Miêu tả hình ảnh con quạ
- Phần 2: Bài thơ số 2: Miêu tả hình ảnh hoa triêu nhan
- Phần 3: Bài thơ số 3: Miêu tả hình ảnh con ốc nhỏ
Nội dung chính
Ba bài thơ thể hiện những rung cảm của con người trước thiên nhiên, từ đó gửi gắm những thông điệp về cuộc đời.
- Tóm tắt, bố cục, nội dung chính bài thơ Thu hứng
- Tóm tắt, bố cục, nội dung chính bài thơ Mùa xuân chín
- Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư
- Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Con khướu sổ lồng
- Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Cánh đồng
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 10 - Kết nối tri thức - Xem ngay




