Phân tích bài thơ “Khi mùa thu sang” của tác giả Trần Đăng Khoa lớp 8>
Bài thơ Khi mùa thu sang của Trần Đăng Khoa đã vẽ nên một bức tranh làng quê thanh bình trong khoảnh khắc giao mùa.
GÓP Ý HAY - NHẬN NGAY QUÀ CHẤT
Gửi góp ý cho Loigiaihay.com và nhận về những phần quà hấp dẫn
Dàn ý
I. Mở bài
- Khẳng định: Thơ là bản giao hưởng của cuộc đời và tâm hồn thi sĩ.
- Giới thiệu bài thơ Khi mùa thu sang của Trần Đăng Khoa.
- Nêu cảm nhận khái quát: Bài thơ thể hiện thi vị, cảm xúc sâu lắng của tác giả trước khoảnh khắc giao mùa, vừa miêu tả cảnh sắc thiên nhiên vừa khắc họa tâm hồn con người.
II. Thân bài
1. Bức tranh thiên nhiên mùa thu làng quê
- Khung cảnh buổi chiều thu:
+ “Mặt trời lặn xuống bờ ao” → ánh hoàng hôn ấm áp, gợi không khí thanh bình.
+ “Ngọn khói xanh lên, lúng liếng” → hình ảnh khói lam chiều mềm mại, uyển chuyển như đang múa.
- Không gian yên ả:
+ “Vườn sau gió chẳng đuổi nhau” → diễn tả sự tĩnh lặng, êm đềm.
+ “Lá vẫn bay vàng sân giếng” → sắc vàng đặc trưng của mùa thu, mang chút man mác.
+ Nghệ thuật: Hình ảnh giàu tính tạo hình, kết hợp màu sắc (vàng, xanh) và động – tĩnh đối lập.
2. Hình ảnh đời sống bình dị gắn với mùa thu
- “Nhà ai giã cốm” → âm thanh đặc trưng của làng quê Bắc Bộ khi vào thu.
- “Làn sương lam mỏng, rung rinh” → cảnh vật trở nên mờ ảo, thơ mộng.
- “Em nhỏ cưỡi trâu về ngõ” → nét sinh hoạt quen thuộc, hồn nhiên.
- Tất cả hòa quyện thành một “bức tranh” sống động, vừa bình dị vừa giàu chất thơ.
3. Không gian và âm thanh của chiều thu
- “Rào thưa, tiếng ai cười gọi” → âm thanh vọng xa, gợi sự thân thuộc.
- “Một khoảng trời trong leo lẻo/ Thình lình hiện lên ngôi sao” → chuyển cảnh bất ngờ, từ chiều sang tối; ngôi sao gợi vẻ huyền ảo và tươi mới.
- Nghệ thuật: Sử dụng từ láy “leo lẻo”, “thình lình” → tăng sức gợi cảm và tính bất ngờ.
4. Cảm xúc, liên tưởng của tác giả
- “Những muốn kêu to… Thu sang!” → cảm xúc reo vui, háo hức khi nhận ra mùa thu đã tới.
- Liên tưởng đến “ông Nguyễn Khuyến” – nhà thơ lớn của làng cảnh Việt Nam → gợi nhớ những vần thơ thu kinh điển.
- Hình ảnh “cõng cháu chạy rông khắp làng” → ký ức tuổi thơ hồn nhiên, gắn bó với quê hương.
- Ý nghĩa: Mùa thu không chỉ là cảnh vật, mà còn khơi gợi kỷ niệm và tình cảm sâu lắng.
5. Nghệ thuật đặc sắc
- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng giàu hình ảnh.
- Kết hợp hài hòa giữa tả cảnh và bộc lộ cảm xúc.
- Sử dụng nhiều từ láy gợi hình, gợi âm, giàu nhạc điệu.
- Thủ pháp vẽ tranh bằng thơ: màu sắc – âm thanh – chuyển động hòa quyện.
III. Kết bài
- Khẳng định giá trị của bài thơ: không chỉ đẹp về thiên nhiên mà còn giàu ý nghĩa nhân văn.
- Gợi lên tình cảm trong sáng, nỗi nhớ quê hương trong lòng người đọc.
Bài siêu ngắn Mẫu 1
Bài thơ Khi mùa thu sang của Trần Đăng Khoa đã vẽ nên một bức tranh làng quê thanh bình trong khoảnh khắc giao mùa. Mở đầu với hình ảnh “Mặt trời lặn xuống bờ ao/Ngọn khói xanh lên, lúng liếng”, tác giả khéo léo kết hợp ánh sáng vàng của hoàng hôn và làn khói lam mềm mại, gợi cảm giác ấm áp, yên ả. Không gian ấy thêm tĩnh lặng với “Vườn sau gió chẳng đuổi nhau/Lá vẫn bay vàng sân giếng” – sắc vàng của lá thu rơi khẽ phủ lên sân giếng quê. Bên cạnh cảnh sắc, nhà thơ còn khắc họa âm thanh và sinh hoạt thân thuộc: tiếng giã cốm, em nhỏ cưỡi trâu về ngõ, tiếng cười gọi xa xăm. Những chi tiết ấy vừa hiện thực vừa đượm chất thơ, phản ánh sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Ở cuối bài, lời reo “Thu sang rồi đấy! Thu sang!” cùng nỗi nhớ về ông Nguyễn Khuyến gợi dòng cảm xúc hoài niệm, yêu thương quê hương tha thiết. Ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh và từ láy sinh động đã làm nên một mùa thu vừa gần gũi vừa đầy thi vị.
Bài siêu ngắn Mẫu 2
Bài thơ Khi mùa thu sang không chỉ tái hiện vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu quê hương mà còn gửi gắm những rung cảm sâu lắng của Trần Đăng Khoa. Cảnh vật hiện lên giản dị mà giàu chất thơ: ánh hoàng hôn trên bờ ao, làn khói lam mỏng, lá vàng rơi nhẹ, tiếng giã cốm và em nhỏ cưỡi trâu về ngõ. Tất cả hòa quyện thành bức tranh làng quê vừa quen thuộc vừa gợi thương nhớ. Giữa khung cảnh ấy, nhà thơ bất chợt reo lên “Thu sang rồi đấy! Thu sang!” – một tiếng reo không chỉ báo mùa thay lá, mà còn đánh thức những ký ức tuổi thơ, những kỷ niệm gắn bó máu thịt với quê hương. Hình ảnh ông Nguyễn Khuyến – nhà thơ của làng quê Bắc Bộ – được nhắc đến như một sợi dây nối quá khứ với hiện tại, làm sâu thêm nỗi hoài niệm. Bài thơ vì thế không chỉ miêu tả một mùa thu cụ thể, mà còn khơi dậy tình yêu quê hương, niềm trân trọng những giá trị bình dị trong đời sống. Đó chính là nét đẹp bền lâu của thơ Trần Đăng Khoa.
Bài siêu ngắn Mẫu 3
Bài thơ Khi mùa thu sang thành công không chỉ nhờ cảm xúc chân thành mà còn ở nghệ thuật biểu đạt tinh tế của Trần Đăng Khoa. Nhà thơ sử dụng từ ngữ giản dị, gần gũi đời sống nhưng giàu sức gợi, khiến cảnh vật và con người hiện lên tự nhiên, sinh động. Các hình ảnh như “ngọn khói xanh lên, lúng liếng”, “làn sương lam mỏng, rung rinh” giàu tính tạo hình và giàu nhạc điệu, gợi cả sắc màu lẫn chuyển động. Tác giả còn khéo léo dùng âm thanh đời thường – tiếng giã cốm, tiếng gọi nhau – để thổi hồn vào bức tranh thu. Thủ pháp nhân hóa và từ láy được sử dụng hợp lý, góp phần tạo chất thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng. Đặc biệt, việc liên tưởng đến Nguyễn Khuyến ở cuối bài không chỉ là một sự tri ân mà còn mở rộng chiều sâu văn hóa, đưa mùa thu hiện tại hòa vào dòng chảy truyền thống. Chính sự kết hợp nhuần nhị giữa chất liệu quen thuộc và cách thể hiện giàu cảm xúc đã tạo nên một tác phẩm đậm đà hồn quê, vừa mộc mạc vừa tinh tế.
Bài tham khảo Mẫu 1
Trần Đăng Khoa – “thần đồng thơ” của nền văn học Việt Nam – nổi tiếng với những câu thơ hồn nhiên, trong trẻo, giàu hồn quê. Bài thơ Khi mùa thu sang là một trong những sáng tác tiêu biểu, vẽ nên bức tranh mùa thu làng quê bình dị mà giàu cảm xúc. Qua những hình ảnh gần gũi, tác giả không chỉ miêu tả khoảnh khắc giao mùa mà còn gửi gắm tình yêu sâu đậm với quê hương.
Mở đầu bài thơ, Trần Đăng Khoa dẫn người đọc bước vào buổi chiều thu với hình ảnh “Mặt trời lặn xuống bờ ao”. Ánh hoàng hôn vàng rực nhẹ buông xuống mặt nước gợi không gian thanh bình, yên ả. “Ngọn khói xanh lên, lúng liếng” là một chi tiết gợi hình độc đáo: làn khói lam chiều mềm mại, uyển chuyển như đang múa giữa không trung. Không gian ấy càng tĩnh lặng hơn qua câu “Vườn sau gió chẳng đuổi nhau” – gió cũng ngừng vội vàng, để mặc những “lá vẫn bay vàng sân giếng” – sắc vàng đặc trưng của mùa thu. Cảnh vật vừa có sự chuyển động nhẹ nhàng, vừa thấm đẫm vẻ tĩnh tại, man mác buồn.
Từ khung cảnh thiên nhiên, tác giả đưa ta đến với những nét sinh hoạt bình dị của làng quê. Âm thanh “nhà ai giã cốm” vọng lại hòa cùng “làn sương lam mỏng, rung rinh” tạo nên cảm giác vừa quen thuộc vừa thơ mộng. Hình ảnh “em nhỏ cưỡi trâu về ngõ” là một dấu ấn quen thuộc của làng quê Việt Nam, hồn nhiên, tươi sáng. Tất cả chi tiết như những mảnh ghép, ghép lại thành một bức tranh mùa thu hoàn chỉnh – giản dị nhưng giàu sức gợi.
Bức tranh ấy không chỉ đẹp ở cảnh mà còn vang vọng âm thanh. “Rào thưa, tiếng ai cười gọi” khiến không gian thêm ấm áp, thân thương. Chỉ bằng một sự chuyển cảnh bất ngờ, “một khoảng trời trong leo lẻo” và “thình lình hiện lên ngôi sao” đã đưa người đọc từ buổi chiều sang buổi tối, từ sắc vàng ấm áp sang ánh sáng huyền ảo của trời đêm.
Không chỉ miêu tả, Trần Đăng Khoa còn bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp: “Những muốn kêu to… Thu sang!” – niềm reo vui, háo hức trước khoảnh khắc giao mùa. Đặc biệt, tác giả liên tưởng đến “ông Nguyễn Khuyến” – nhà thơ nổi tiếng với chùm thơ thu bất hủ – như một cách gửi lời tri ân tới bậc tiền nhân. Hình ảnh “cõng cháu chạy rông khắp làng” gợi nhớ ký ức tuổi thơ vô tư, hồn nhiên, gắn bó với từng nẻo đường, hàng cây của quê hương.
Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng giàu hình ảnh, âm thanh và màu sắc. Nhiều từ láy như “lúng liếng”, “rung rinh”, “leo lẻo”, “thình lình” vừa gợi hình vừa tạo nhạc điệu. Tác giả khéo léo kết hợp giữa tả cảnh và bộc lộ cảm xúc, khiến bức tranh mùa thu vừa sống động vừa thấm đẫm tình cảm.
Khi mùa thu sang không chỉ là một bài thơ đẹp về cảnh sắc quê hương mà còn là một khúc nhạc trữ tình của tâm hồn. Qua đó, Trần Đăng Khoa đã khơi dậy trong lòng người đọc tình yêu thiên nhiên, sự trân trọng những giá trị bình dị, cùng nỗi nhớ quê hương sâu lắng. Bằng tài quan sát tinh tế và cảm xúc chân thành, tác giả đã biến những hình ảnh đời thường thành thơ ca giàu sức sống, để lại dư âm dịu ngọt trong lòng mỗi người.
Bài tham khảo Mẫu 2
Thơ là bản giao hưởng của cuộc đời và tâm hồn thi sĩ. Đọc bài thơ "Khi mùa thu sang" của Trần Đăng Khoa, ta cảm nhận được những thi vị cảm xúc sâu lắng của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa của tự nhiên. Bài thơ này không chỉ đơn thuần miêu tả cảnh sắc thiên nhiên mà còn khắc họa tâm hồn con người, tạo nên một không gian mùa thu đầy ắp những kỷ niệm và cảm xúc sâu lắng.
Mùa thu trong bài thơ được mô tả như một bức tranh sống động, với những sắc màu và âm thanh khiến trái tim chúng ta rung động trong không gian cảnh vật ấy:
Mặt trời lặn xuống bờ ao
Ngọn khói xanh lên, lúng liếng
Vườn sau gió chẳng đuổi nhau
Lá vẫn bay vàng sân giếng
Mở đầu với hình ảnh "Mặt trời lặn xuống bờ ao", ánh sáng vàng rực rỡ của hoàng hôn như tô điểm thêm vẻ đẹp của tự nhiên. Nhà thơ đưa bạn đọc đến với khung cảnh làng quê thanh bình trong buổi chiều thu sang. Những tán lá vàng rơi rụng, những cánh hoa thu rải trên đường không chỉ tạo ra không khí thanh bình mà còn gợi lên khoảnh khắc giao mùa của thời gian . Ánh nắng và màu sắc của mùa thu như hòa quyện, tạo thành một khung cảnh vừa ấm áp vừa thơ mộng, khiến chúng ta như lạc vào một thế giới yên bình, nơi có sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Cảnh vật thiên nhiên vì thế trở nên thanh bình, lãng mạn.
Đọc những vần thơ tiếp theo , Trần Đặng Khoa đi sâu vào miêu tả từng chi tiết, hình ảnh cảnh vật quê hương trong làn sương ban chiều thu nhạt nhòa. Hình ảnh. "giã cốm, em nhỏ dắt trâu về" khiến trái tim nhà thơ thổn thức, một hình ảnh quá đỗi bình dị nhưng đã in sâu trong tâm trí nhà thơ. Những gam màu đơn sơ ấy đã tạo nên bức tranh thu tĩnh lặng, thơ mộng. Hòa cùng cảnh vật là âm thanh tiếng ai gọi vặng vào không gian yên ắng. Từ láy: rung rinh, lanh lẻo, thình lình giúp đoạn thơ thêm sinh động, gợi cung bậc trong lòng tác giả, đó là nỗi niềm nhớ thương cảnh vật quê nhà chiều thu.
Tác giả cũng lồng ghép những cung bậc cảm xúc phong phú của con người." Thu sang rồi đấy! Thu sang!Lòng bỗng nhớ ông Nguyễn KhuyếnCõng cháu chạy rông khắp làng..."Những câu thơ ngắn gọn nhưng mang tính chất truyền tải rất sâu sắc, ôm lấy lòng người và gợi lên hàng loạt cảm xúc từ sâu thẳm trái tim. Trần Đăng Khoa không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cảnh sắc mà còn thể hiện niềm vui, hạnh phúc của tình yêu, sự gắn bó với quê hương, cũng như những ân hận, tiếc nuối và nỗi cô đơn. Tác giả đã khơi gợi dòng chảy mến thương trong lòng bạn đọc giữa tiết trời thu hoài niệm nhớ quê hương.
Trần Đăng Khoa đã sử dụng những từ ngữ giản dị nhưng giàu sức biểu cảm, giúp người đọc cảm nhận được sự chân thành và tình cảm sâu lắng của tác giả. Ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng đầy hình ảnh đã tạo nên những cảm xúc chân thật, gần gũi, khiến chúng ta như được sống lại trong những kỷ niệm của tuổi thơ hay những khoảnh khắc bình yên bên gia đình.
"Khi mùa thu sang" của Trần Đăng Khoa đã đưa bạn đọc lạc vào xứ sở, chìm đắm trong không gian mùa thu tuyệt đẹp và cảm nhận được những cung bậc cảm xúc của con người. Đây không chỉ là một bài thơ đẹp về thiên nhiên mà còn là một tác phẩm ý nghĩa, khơi gợi những tình cảm trong sáng, nỗi nhớ quê hương trong lòng mỗi người.
Bài tham khảo Mẫu 3
Người ta nói: "Nghệ thuật là bản giao hưởng đẹp đẽ", quả không sai. Mỗi nhà thơ, nhà văn khi tạo dựng nên tác phẩm đều được ví như những nhà soạn nhạc vĩ đại đang không ngừng tuôn trào những nốt nhạc thanh cao, trong trẻo để tạo nên những bản nhạc hùng vĩ. Và chắc chắn, nhà thơ Trần Đăng Khoa cùng bài thơ "Khi mùa thu sang" cũng vậy. Bài thơ là những nốt nhạc, những bản giao hưởng trầm bổng, du dương về bức tranh quê mùa thu mộc mạc, dân dã nhưng đậm chất quê hương Việt Nam. Qua đó, nhà thơ cũng gửi gắm những nốt nhạc về tình yêu, sự gắn bó với quê hương đất nước.
Trần Đăng Khoa sinh năm 1958 tại Hải Dương. Ông nổi tiếng là một thần đồng thơ khi chỉ mới 7−8 tuổi. Ông thường viết về những hình ảnh gần gũi, tươi đẹp, giản dị của thiên nhiên Việt Nam. Chất thơ của ông mềm mại, trong sáng. hồn nhiên cùng ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, sống động và giàu chất biểu cảm. Ông có rất nhiều những tác phẩm để đời và một trong số đó phải kể đến tác phẩm "Khi mùa thu sang". Bài thơ được sáng tác vào năm 1975 khi tác giả vừa tròn 15 tuổi. Bài thơ là bức tranh thiên nhiên mùa thu nơi làng quê dưới cái nhìn của tác giả.
Đến với khổ thơ đầu tiên là hình ảnh chiều thu nơi làng quê bình dị, yên bình và mơ mộng: "Mặt trời lặn xuống bờ ao
Ngọn khói xanh lên, lúng liếng
Vườn sau gió chẳng đuổi nhau
Lá vẫn bay vàng sân giếng"
Mở đầu khổ thơ là hình ảnh "mặt trời lặn xuống" miêu tả rõ nét về cảnh chiều tàn. Hình ảnh mặt trời lặn xuống bờ ao với biện pháp nhân hóa ("lặn") khiến người đọc có cảm giác như mặt trời rất gần và gắn bó mật thiết với cuộc sống sinh hoạt của con người. "Ngọn khói xanh" cũng là một hình ảnh vô cùng bình dị, gần gũi; đây cũng là hình ảnh xuất hiện trong mỗi làng quê ngày trước. Đó là khi nhà nhà bắt đầu thổi bếp nấu cơm chiều, đó cũng là lúc những làn khói xanh xuất hiện. Những ngọn khói tạo nên khung cảnh huyền bí nhưng cũng không kém phần thân thuộc, mơ mộng cùng bầu không khí ấm áp bên gia đình. Ta có thể bắt gặp hình ảnh ấy trong bài thơ "Tre Việt Nam" của Nguyễn Duy: "Khói nhà ai lẫn khói trời
Khói lam chiều tím cả đời người đi".
Hình ảnh ngọn khói không chỉ là gợi nhắc đến khung cảnh làng quê mà còn là hình ảnh tượng trưng cho làng quê nghĩa tình. Cũng ở câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng từ láy "lúng liếng" để tạo nên giai điệu cho câu thơ; nhưng không dừng lại ở đó, việc sử dụng từ láy còn để miêu tả sự uyển chuyển, nhịp nhàng của ngọn khói bốc lên. Nếu như hai câu thơ đầu miêu tả sự chuyển động thì câu thơ thứ ba lại là sự tĩnh lặng đến nỗi gió "chẳng thèm đuổi nhau". Nhưng không vì thế mà khiến bức tranh làng quê bị mất đi mà ngược lại, bức tranh càng được miêu tả rõ nét hơn với sự tĩnh lặng, thanh bình đến nao nức. Đến với câu thơ cuối lại có sự chuyển động: "Lá vẫn bay vàng sân giếng". Nếu ở những câu thơ trên, tác giả miêu tả trạng thái hoạt động của các sự vật với sự trầm lắng, nhẹ nhàng thì ở câu thơ cuối lại sự sống động, nhộn nhịp, chàn chề qua động từ "bay". Hình ảnh lá thu bay "vàng sân giếng" là điểm xuyết của màu sắc ấm áp, rực rỡ cho buổi chiều nhuộm màu trầm của ao, khói xanh và gió. Có thể thấy, bức tranh chiều mùa thu không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên mà đã được tác giả sắp xếp một cách tỉ mỉ, tinh tế để tạo nên.
Nếu khổ thơ đầu miêu tả về bức tranh thiên nhiên thì ở khổ thơ thứ hai là những hình ảnh miêu tả về bức tranh làng quê quen thuộc, giản dị và yên bình:
"Xóm ngoài, nhà ai giã cốm
Làn sương lam mỏng, rung rinh
Em nhỏ cưỡi trâu về ngõ
Tự mình làm nên bức tranh"
Khổ thơ mở đầu bằng hình ảnh "cốm" − một đặc trưng của mùa thu. Cốm không chỉ là món ăn truyền thống với hương vị thanh tao, nhẹ nhàng mà còn là tín hiệu, là sự chuyển giao giữa mùa hạ và mùa thu. Âm thanh "giã cốm" tạo nhịp điệu nhẹ nhàng cho câu thơ cùng không gian "xóm ngoài", "nhà ai" càng tạo nên không gian rộng và cảm giác thân quen, thân thuộc với quê hương. Câu thơ thứ hai là câu thơ giàu chất hội họa và gợi cảm, đưa người đọc vào một cảnh thu yên tĩnh và nên thơ với hình ảnh "sương lam mỏng" gợi sự thanh tĩnh, tinh khôi kết hợp với từ láy "rung rinh" làm mềm không gian, tạo chuyển động mơ hồ, làm cho bức tranh càng thêm phần sống động. Câu thơ thứ ba là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh những em bé cưỡi trâu. Và khép lại khổ thơ là lời khẳng định của tác giả rằng bức tranh làng quê Việt Nam đẹp một cách tự nhiên, không sắp xếp nhưng lại đầy thi vị.
Đến với khổ thơ thứ ba là khung cảnh làng quê khi về đêm:
"Rào thưa, tiếng ai cười gọi
Trông ra nào thấy đâu nào
Một khoảng trời trong leo lẻo
Thình lình hiện lên ngôi sao"
Hình ảnh "rào thưa" tạo cảm giác mộc mạc, mở ra không gian thân quen nơi làng quê. Nơi ấy có "tiếng ai cười gọi" chợt vang lên mà không biết là của ai khiến cho người đọc cảm thấy nguồn cảm xúc ấy như được gợi ra một cách vừa gần gũi nhưng cũng vừa xa vắng như từ trong kí ức. Câu thơ mở ra bằng một âm thanh nhẹ nhàng, thân thương, làm rung động không gian tĩnh lặng, như tiếng gọi từ quá khứ hay từ một linh hồn quê nhà. Câu thơ thứ hai với nhịp điệu ngập ngừng cùng biện pháp lặp từ "nào" tạo cảm giác bối rối, không rõ ràng. Nhân vật trữ tình nghe thấy tiếng ai cười gọi nhưng lại chẳng thấy ai lại càng làm tăng tính hư ảo, mộng mị cho khung cảnh làng quê về đêm. Câu thơ diễn tả sự ngỡ ngàng, có thể là của một đứa trẻ, hoặc người đang sống trong hồi tưởng. Nó thể hiện một cảm giác chới với giữa thực và ảo, giữa hiện tại và ký ức. "Khoảng trời" gợi không gian rộng mở, vời vợi cùng từ láy "leo lẻo" cho thấy sự trong trẻo tuyệt đối. Nếu hai câu thơ trước cho thấy sự mơ hồ không rõ thì câu thơ này như một sự giác ngộ, bừng tỉnh của tác giả khi "thình lình" nhìn thấy trên trời hiện lên "ngôi sao". Sự xuất hiện của ngôi sao như một phép màu − biểu tượng của ánh sáng, hy vọng, mơ mộng, đôi khi cũng gắn với linh hồn, ước mơ, ký ức người thân.
Khổ thơ cuối là bức tranh giao mùa đầy cảm xúc, trong đó cảm giác hân hoan, hoài niệm và yêu thương hòa quyện một cách tự nhiên:
"Những muốn kêu to một tiếng
Thu sang rồi đấy! Thu sang!
Lòng bỗng nhớ ông Nguyễn Khuyến
Cõng cháu chạy rông khắp làng..."
Câu thơ mở đầu với cảm xúc dâng trào, không kìm nén được, người viết như muốn bộc lộ tâm trạng của mình trước thiên nhiên. Đó là tâm trạng thầm kín, thể hiện sự kìm nén nhưng cảm xúc ấy rất mạnh mẽ. Câu thơ gợi ra một cảm xúc rất người − khi ta xúc động đến mức muốn hét lên, chia sẻ với cả đất trời. Có thể là niềm vui, sự ngỡ ngàng hay một ký ức vừa chợt ùa về. Câu thơ thứ hai là câu cảm thán thể hiện sự reo vui, vỡ òa trước khoảnh khắc giao mùa với dấu chấm than và nhịp điệu nhanh khiến người đọc cảm nhận rõ một cảm xúc mừng rỡ, rộn ràng. Mùa thu đến không chỉ là thay đổi của thiên nhiên mà còn là sự đánh thức cảm xúc bên trong con người gợi sự sống, sự chuyển mình và cả những rung cảm thi sĩ. Cái "thu" của đất trời đã gợi lên trong tác giả cái "thu" của thi sĩ. Cảm xúc đến rất tự nhiên, tác giả nhớ đến ông Nguyễn Khuyến − biểu tượng của mùa thu trong thơ ca Việt. Nhắc đến ông, người ta nhớ đến cái thu thanh tịnh, sâu lắng, gắn với làng quê Bắc Bộ xưa. Ở đây, người viết không chỉ nhớ mùa thu, mà còn nhớ cả một hồn thơ xưa cũ, một truyền thống thi ca. Câu thơ cuối là hình ảnh đời thường, bình dị và hóm hỉnh. Nguyễn Khuyến được biết đến là nhà thơ nghiêm cẩn nhưng ở đây, ông lại "cõng cháu chạy rông khắp làng..." Câu thơ không chỉ là hình ảnh một ông già yêu đời, yêu quê, yêu gia đình mà còn là sự tiếp nối giữa mùa thu − thơ − tình thân rất đậm chất Việt Nam.
Tóm lại, với những hình ảnh giàu biểu cảm và sức gợi; hình ảnh thơ mộc mạc nhưng sâu xa; nhịp thơ biến đổi linh hoạt; sự kết hợp, gắn bó giữa thiên nhiên với con người, giữa hiện tại với kí ức;... Tất cả đã tạo nên một bức tranh mùa thu nơi làng quê đầy chất thơ, chất nhạc, chất trữ tình. Bài thơ "Khi mùa thu sang" xứng đáng là một thi phẩm và sẽ là bản giao hưởng bất tử, luôn vang vọng mãi trong tâm trí người đọc.


- Phân tích bài thơ “Khúc ru quê” của tác giả Vũ Tuấn
- Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em khi đọc bài thơ “Quê của mẹ” của tác giả Nguyễn Khánh Châu
- Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Nhớ đồng lớp 8
- Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Nắng mới lớp 8
- Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Lá đỏ lớp 8
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 8 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Phân tích bài thơ “Khi mùa thu sang” của tác giả Trần Đăng Khoa lớp 8
- Viết bài văn phân tích truyện ngắn Bây giờ bạn ở đâu? của Trần Thiên Hương lớp 8
- Phân tích bài thơ “Khúc ru quê” của tác giả Vũ Tuấn
- Viết đoạn văn ngắn có câu chủ đề: “Khi sống biết ơn bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc” lớp 8
- Phân tích truyện ngắn “Anh hai” của Bùi Quang Minh
- Phân tích bài thơ “Khi mùa thu sang” của tác giả Trần Đăng Khoa lớp 8
- Viết bài văn phân tích truyện ngắn Bây giờ bạn ở đâu? của Trần Thiên Hương lớp 8
- Phân tích bài thơ “Khúc ru quê” của tác giả Vũ Tuấn
- Viết đoạn văn ngắn có câu chủ đề: “Khi sống biết ơn bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc” lớp 8
- Phân tích truyện ngắn “Anh hai” của Bùi Quang Minh